Tôi đến thăm Cali vào những ngày mưa, mưa tầm
tã. Đài phát thanh Little Saigon, trong
chương trình dự báo thời tiết, cho biết cả tiểu bang Cali đang bị ảnh hưởng một
cơn bão nhiệt đới. Nằm nhà người bạn
cùng đơn vị xưa ở thành phố Garden Grove, trong khu Little Saigon, cả ngày hai thằng
thi nhau kể chuyện chiến trường, chuyện bạn bè, tù tội, làm cho những cơn mưa
như càng dài ra thêm.
Anh bạn rủ tôi ra Hội Trường Nhật Báo Viễn
Đông tham dự buổi ra mắt sách của một nhà văn nữ. Anh tỏ ra am tường về mọi thứ chuyện, bảo ở hải
ngoại thời buổi này văn chương chữ nghĩa rẻ như bèo, mà nhà văn nhà thơ thì cứ
mọc lên như nấm. Đúng là người Việt nam
nào cũng có đầy thơ văn trong bụng. Nhưng
nhà văn hôm nay là người quen, một cô bạn học cũ, sau này anh bất ngờ gặp lại
khi cô đang làm phóng viên chiến trường, nên tới để cho cô ấy vui.
Chúng tôi đến trễ, may mà còn mấy chiếc ghế trống
phía sau để không phải đứng. Trên sân khấu,
một diễn giả, dường như cũng là một nhà văn lão thành có tiếng tăm, đang giới
thiệu tác giả và tác phẩm.
Lại thêm một tác phẩm nữa về chiến tranh! Cuộc
chiến chấm dứt đã hơn 30 năm, nhưng bao nhiêu nỗi oan khiên dường như vẫn còn
nguyên trong lòng người tha phương, như những vết thương không bao giờ lành được.
Người MC rất khéo léo, khi muốn tạo một
không khí gây nhiều cảm xúc trước khi nhân vật chính, nhà văn nữ, lên trình diện
và tâm tình vài lời cùng cử tọa, nên chương trình được nối tiếp bằng tiết mục
ngâm thơ. Bài thơ "Ngày Ta Về" của nhà thơ Tô
Thùy Yên được diễn ngâm bằng giọng rất truyền cảm của nữ sĩ Bích Loan. Cá nhân tôi cũng rất thích bài thơ "Ngày
Ta Về" này. Bài thơ hay mà tác giả
lại là người bạn cùng tù mà tôi rất quý, nên lắng tai chú ý nghe.
Cả hội trường im lặng khi tiếng sáo cất lên
cao vút. Anh MC vừa giới thiệu đó là tiếng
sáo của Hồ Ngọc, tiếng sáo điêu luyện, nổi tiếng của miền Nam Cali. Lời giới thiệu này quả không cường điệu chút
nào. Tiếng sáo trầm bổng, réo rắt, thiết
tha, như vừa du hồn tôi vào một cõi hư vô nào đó. Rõ ràng tiếng sáo đã làm cho bài thơ gây cảm
xúc tột cùng trong lòng người nghe, mà hầu hết đều từng mang tâm trạng của những
kẻ “ta về”.
Tôi đứng lên, nhìn về hướng sân khấu. Hồ Ngọc, người cao lớn, đầu cúi xuống, các
ngón tay như đang múa trên cây sáo nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy mái tóc hoa râm bồng
bềnh. Tôi thích thổi sáo từ nhỏ, khi mê
tiếng sáo Nguyễn Đình Nghĩa trong chương trình Tao Đàn của Tô Kiều Ngân trên
đài phát thanh Sài gòn, vào những đêm khuya thuở trước. Sau tháng 4/75, qua bao nhiêu vật đổi sao dời,
dường như đây là lần đầu tiên tôi được nghe lại một tiếng sáo hay và buồn như
thế. Tiết mục ngâm thơ chấm dứt, tiếng vỗ
tay như muốn vỡ cả hội trường.
Tôi cúi mình đi vòng về phía sau sân khấu, tò
mò nôn nóng muốn biết Hồ Ngọc và cũng muốn được bắt tay ca ngợi anh một tiếng. Vừa đúng lúc Hồ Ngọc đang cầm chai nước lọc
đưa lên miệng, thì cả hai chúng tôi đều nhận ra nhau. Anh chưa kịp uống một hớp nước, kêu tên tôi
và ôm chầm lấy tôi.
Hồ Ngọc, là nghệ danh của Hồ Ngọc Phú Hội, người
bạn thân của tôi từ thời thơ ấu. Hai thằng
ở cùng làng. Nhà ông bà nội tôi cách nhà
Hội chỉ một vạc ruộng, con mương và đặc biệt là những hàng tre cao, mà buổi tối
những đàn có trắng thường kéo nhau về ngủ ở đây, gây chút rộn rã cho một vùng
không gian tĩnh mịch và tạo những nét chấm phá trên nền xám đen của khung trời
sắp tối như một bức tranh thủy mặc.
Vào mùa đông, những buổi chiều gió mưa tầm tã,
tôi thường đứng bên cửa sổ nhà ông bà nội, nhìn ra hàng tre với những cái đọt
cao vút theo gió chao qua đảo lại mà thấy tội nghiệp và lo lắng cho những chú
cò trên ấy.
Cha tôi và cha của Hội là hai người bạn cùng
trường thời Pháp thuộc. Sau này cả hai ông đều làm thầy giáo. Cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra Liên Khu 5. Hai năm sau ông được thả về với cơn bệnh sốt
sét, đành phải nghỉ dạy, nên gởi tôi theo học với cha của Hội, mà trong làng và
cả bọn học trò chúng tôi thường gọi ông là thầy giáo Tám. Ông là một vị thầy nổi tiếng dạy giỏi, nhưng
rất nghiêm khắc.
Đám học trò nhỏ của Thầy sau này vào đại học
khá nhiều, và một số rất thành công trong nhiều sự nghiệp. Trong lớp hình như đứa nào cũng từng bị đánh
đòn hoặc bị phạt ở lại quét sân trường, trồng cây vào những ngày thứ bảy chủ nhật,
ngoại trừ tôi.
Có lần làm sai mấy bài toán tôi suýt bị tát
tai, nhưng rồi Thầy kịp dừng tay lại. Có
lẽ Thầy ngại làm buồn lòng cha tôi, hơn nữa lúc ấy tôi mồ côi mẹ, nên Tiếng sáo
ông cũng động lòng thương. Đứa học trò bị
đòn nhiều nhất lại chính là Hội, đứa con trai lớn của Thầy.
Mặc dù Hội học khá giỏi, nhất là môn toán. Thầy đánh con mình để làm gương. Lúc ấy, tôi nghĩ thầm như thế và thấy rất
thương Hội và tội nghiệp cho Hội. Ngược
lại với Thầy, mẹ của Hội lại là một người đàn bà phúc hậu, hiền lành và rất
cưng chiều con. Những ngày nghỉ, tôi thường
đến nhà Hội chơi, nhưng không dám bước vào ngôi nhà trên vì sợ gặp Thầy. Bọn
tôi thường chơi phía sau vườn, mẹ Hội làm vài thứ bánh mang ra cho hai đứa
chúng tôi ăn.
Có lần hai thằng rủ nhau đi tìm những tổ sáo,
mang về nuôi hai con sáo con, giấu nó phía sau hè. Mẹ Hội giúp tìm thức ăn và chăm sóc hai chú sáo. Hội tập cho những con sáo con biết bay và biết
nói. Khi hai con sáo lớn lên, nó bay
theo chúng tôi, đậu trên vai, theo bọn tôi tới trường, hót líu lo, và bập bẹ
vài tiếng: chào anh! chào chị! Cả đám học trò bu quanh, thèm thuồng. Có thằng còn theo năn nỉ, cho quà chúng tôi chỉ
để được sờ hay ôm con sáo. Hội còn dạy
cho tôi làm bẫy phía sau bờ mương, bên hàng tre, để bắt được mấy con cuốc khi
tìm theo tiếng “gọi hè” của nó.
Một lần, mang con cuốc về nhà nội, bất ngờ gặp
cha tôi. Ông bảo con cuốc còn được gọi
là Đỗ Quyên hay Từ Quy, theo tích xưa là hóa thân của Vua Thục Đế bên Tàu, mất
nước nên đã khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành con cuốc kêu lên những tiếng
khắc khoải não nùng. Nghe cha tôi kể lại
chuyện xưa, Hội cảm động quá, bảo tôi đem con cuốc thả lại chỗ cũ, và từ đó
không bao giờ chúng tôi bẫy những con cuốc nữa.
Từ nhỏ, tôi đã phục Hội có tính nhân từ và nhiều tài, dạy cho tôi nhiều
chuyện hay, mặc dù Hội nhỏ hơn tôi đến hai tuổi. Khi hết bậc tiểu học, tôi phải rời quê vào
Nha Trang, vì ở đây mới có trường trung học.
Nhưng chỉ vài năm sau, chúng tôi lại gặp nhau ở thành phố này. Hội ở trọ nhà một người quen trên đường Âu
Cơ, khu Xóm Mới. Thỉnh thoảng vào những
ngày cuối tuần, tôi đạp xe đến thăm. Có
khi hai thằng rủ nhau đi “cọp” xe lửa về thăm quê và lũ bạn nhỏ ngày xưa.
Lần đầu tiên tôi gặp Hội ở nhà trọ, đúng vào
lúc anh ta đang tập thổi sáo. Hội mang
ra khoe tôi cây sáo trúc rất đẹp, được giữ cẩn thận trong một cái hộp bao bằng
vải nhung đen, Cây sáo được ông thầy người Huế tặng cho Hội, “một cậu học trò
có năng khiếu, sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”. Ông Thầy bảo như như thế. Mặc dù lúc ấy, tiếng sáo của Hội chưa có gì đặc
sắc. Sau khi xong trung học, tôi rời Nha
Trang vào Sài gòn học thêm một vài năm, rồi xếp bút nghiên vào lính.
Ra trường, được bổ sung về một đơn vị tác chiến
lưu động ở Cao Nguyên. Năm tháng sống chết với đồng đội, núi rừng,
nên chúng tôi không có dịp gặp nhau. Sau
này, trong một lần bị thương, xuất viện được vài ngày phép trước khi ra đơn vị,
tôi về thăm quê nội và ghé lại thăm cha mẹ Hội.
Lúc này thầy Tám không còn dạy học nữa, mà ở nhà làm chủ, cho thuê các
loại nông cơ: máy cày, máy gặt. Thầy đón
tiếp niềm nở, tôi không còn thấy sợ như ngày xưa. Thầy cho biết là Hội cũng đã vào lính và đang
phục vụ tận dưới Vùng IV đồng bằng sông nước.
Cả năm cũng chỉ về phép một đôi lần ngắn ngủi. Thấy mẹ Hội bồng một đứa bé gái chừng một,
hai tuổi, tôi lấy làm lạ, hỏi bà, và được biết đó là đứa con đầu lòng của Hội. Khuôn mặt đứa bé trông giống ông nội như đúc. Không
hiểu tại sao lúc ấy tôi không hỏi gì về vợ của Hội, và tại sao bà nội lại phải
nuôi đứa cháu sơ sinh.
Rồi từ đó cho đến ngày 30/4/75, tôi cũng không
gặp lại Hội. Cho mãi hơn tám năm sau,
khi tôi trở về từ những trại tù, và chính quyền CS không cho tạm cư cùng với vợ
con ở thị trấn Ninh Hòa (quê vợ), bắt buộc phải về “quản chế” nơi sinh quán,
tôi mới gặp lại Hội. Hội bị tù ở trại A
30 trong Nam, và được thả về trước tôi một năm.
Anh ở một mình trong căn nhà tranh nhỏ, vốn là
cái kho chứa vật dụng nông nghiệp hư hỏng lâu năm của cha anh, nằm ngay trên
vùng đất của ngôi trường mà ngày xưa thầy Tám dạy học. Hội kiếm sống qua ngày bằng việc làm vườn trồng
rau và sửa chữa xe đạp cho khách qua đường.
Chúng tôi lại trở thành đôi bạn như ngày xưa. Có điều bây giờ gần như cả hai thằng phải sống
bên lề xã hội. Cứ vài ngày phải đi làm
thủy lợi, sửa chữa các con đường trong xã.
Tối đến phải ra trình diện công an trước khi đi ngủ.
Lúc này, cha tôi đã chết trong một trại tù
khác trong Nam, còn thầy Tám, cha của Hội, bị kết tội “phá hoại công cụ sản xuất”
khi ông không chịu giao nạp cho chính quyền những chiếc máy nông cơ của ông, và
phá tháo ra từng mảnh nhỏ, chôn giấu rải rác khắp trong vườn, nên bị cưỡng bách
làm việc đo đạc cho một hợp tác xã nông nghiệp, mà tên chủ nhiệm lại chính là một
thằng hoc trò rất dốt của ông ngày xưa, học đâu chỉ tới lớp nhì rồi nghỉ. Trước 75, hắn ta là lính hải thuyền đào ngũ, do
tội ăn cắp chất nổ, không dám trở về đơn vị, trốn ngoài một hòn đảo nhỏ, sống bằng
nghề làm rẫy và đánh cá, rồi bị móc nối theo giặc. Sau tháng 4/75, nhờ tài nịnh hót, chỉ điểm mà
từ một tên du kích, hắn ta trở thành chủ nhiệm HTX có tiếng hống hách và tàn ác
nhất huyện. (Sau này lên đến chức trưởng
ban thương nghiệp huyện, bị tù vì tham nhũng và đã chết sau vài năm được thả
ra).
Một hôm, vợ chồng tôi đến thăm, bất ngờ gặp vợ
và hai đứa con trai rất dễ thương của Hội.
Hội cho biêt là vợ con sống ở Nha Trang, chỉ lâu lâu ra thăm một lần. Vợ Hội là một người đàn bà đẹp, có nét đài
các, dù trải qua cảnh đời cơ cực, nhưng nhan sắc không mấy tàn phai. Thấy vợ chồng con cái đoàn tụ, hạnh phúc, tôi
mừng cho Hội. Chúng tôi cùng làm thịt
con gà do vợ Hội mang về, hái rau thơm trồng sẵn sau vườn, ăn một bữa cơm chung
“thịnh soạn”. Chỉ hai hôm sau, vợ con Hội
lại trở về thành phố. Sau khi đưa vợ con
lên xe đò, Hội theo chúng tôi về nhà ông bà nội tôi, nơi tôi đang “tạm trú”.
Thấy anh không vào nhà ngay, mà đứng nhìn trời
buồn bã, vợ tôi đùa:
-Mới đưa người đẹp đi mà lại nhớ rồi hay sao
đây?
Hội cười, nhưng nét buồn vẫn còn nguyên trên mặt. Buổi trưa hôm ấy, ba chúng tôi ngồi uống trà
tâm tình dưới gốc cây xoài già, nơi ngày xưa tôi và cô Út thường ngồi đọc truyện
cho bà nội tôi nghe. Khi vợ tôi hỏi vì
sao mà vợ Hội không ở lại với anh nhiều hơn, Hội buồn bã trả lời:
- Bà phải về trông con, vì bà còn một đứa con
gái nhỏ ở nhà. Nhưng nó không phải là
con của tôi.
Bất ngờ nghe qua điều này, vợ chồng tôi biết
đây là một câu chuyện buồn. Thấy chúng
tôi trầm ngâm im lặng, Hội kể cho chúng tôi nghe về cuộc tình đẹp, nhưng trắc
trở trong hôn nhân và những biến cố đau buồn của vợ chồng anh. Trước khi vào lính, nhờ trình độ Anh văn khá
và lý lịch tốt, Hội được nhận vào làm thông dịch viên cho Cơ quan Mỹ phụ trách
Chiến Dịch Phượng Hoàng tại một tỉnh Cao Nguyên. Với công việc này, anh có nhiều dịp gặp gỡ
ông Phó ty Cảnh sát, và được ông nhờ anh, cứ ba buổi tối trong tuần, đến nhà dạy
kèm cho cô con gái môn Anh văn và toán. Cô
bé đang học lớp đệ ngũ. Hội cao lớn, đẹp
trai, lại đàn hát hay, nhưng không phải vì thế mà chỉ mới hai tuần cô học trò
nhỏ đã “ái mộ” ông thầy.
Sau này cô bé cho biết cô mê ông thầy chính vì
tiếng sáo, “tiếng sáo ru hồn người ta”- lời cô bé nói. Cô bé rất xinh, có cái tên hơi kiếm hiệp “Hà
Thị Triệu Minh”. Có thể ngày xưa phụ
thân cô thích đọc chuyện chưởng và ái mộ nhân vật Triệu Minh? Dường như khi biết
yêu thì các cô con gái “trổ mã”, lớn nhanh hơn và đẹp ra nhiều hơn.
Chỉ một năm sau, khi lên lớp đệ tứ, Triệu Minh
là hoa khôi trong đám nữ sinh trong tỉnh.
Những ngày nghỉ học, cô học trò Triệu Minh nói dối mẹ, đi học nhóm, làm
báo tường, tập hát với các bạn cùng lớp, nhưng thực ra là hẹn hò và dung dăng
dung dẻ với ông gia sư trẻ. Trong thành
phố này, góc núi, bờ sông, khu vườn, khe đá nào thơ mộng đều có in dấu chân, nghe
lời tình tự, chứng kiến lời thề non hẹn biển của hai người.
Và tất nhiên ở những nơi ấy cũng còn cả dư âm
“tiếng sáo ru hồn người ta” nữa. Khi cuộc
tình của hai người đến thời kỳ say đắm nhất, cũng là lúc ông Phó Ty được các
thám tử báo cáo tình hình. Có đứa con
gái cưng xinh nhất tỉnh, không thể nào ông chịu để làm người tình với một chàng
lãng tử, mà lương thông dịch chỉ ba cọc ba đồng. Ông bèn nhốt cô con gái trong nhà, mỗi lần đi
học đều có người hộ tống.
Ông xách súng đi tìm Hội, và bắn tiếng là sẽ
không để yên, nếu Hội không chấm dứt với Triệu Minh và rời khỏi Cao Nguyên. Triệu Minh biết rõ tính khí của cha mình, nên
nhờ một cô bạn thân tìm Hội, trao cho anh mảnh giấy, bảo Hội phải ra đi ngay và
hẹn thề sẽ tìm gặp lại ở một nơi nào đó sau này, không ai biết.
Mọi liên lạc đều qua trung gian của cô bạn học
chí thân này. Nghe lời Triệu Minh, Hội
xin chấm dứt ngay hợp đồng làm việc, theo máy bay Mỹ rời khỏi Cao Nguyên và sau
đó xin vào trường Thủ Đức, mà trước đây Hội tạm thời được hoãn động viên nhờ Cơ
quan DAO can thiệp. Ra trường, Hội xin về
phục vụ tại Tiểu Khu An Xuyên, tỉnh cực nam của đất nước và xa cách muôn trùng
với Cao Nguyên. Trong suốt thời gian
này, hai người vẫn liên lạc nhau, qua cô bạn trung gian.
Mỗi tuần Hội đều nhận được một lá thư ướt đẫm
nước mắt của Triệu Minh. Cuối cùng, Triệu Minh giữ lời thệ ước, sau khi
thi đỗ tú tài, vờ vào Sài gòn xin vào đại học, rồi trốn cha mẹ, xuống Cà Mau sống
với Hội. Sau khi sinh đứa con gái đầu lòng, Triệu Minh
viết thư thú tội với cha mẹ, bảo là mình đã chọn đúng người chồng xứng đáng để
yêu thương và sẽ cùng nhau tự lực xây dựng hạnh phúc gia đình, không hề xin mẹ
cha bất cứ điều gì, ngoài sự cảm thông và bao dung tha thứ.
Triệu Minh nghĩ là dù sao ván cũng đã đóng
thuyền, hơn nữa mình cũng đã sinh cho cha mẹ một đứa cháu ngoại, chắc chắn ông
bà sẽ động lòng thương và chấp nhận cuộc hôn nhân. Nhưng cô đã lầm. Ông bà xuống tận nơi, xỉ vả Hội và Triệu Minh
một trận, bắt phải tìm người cho đứa bé sơ sinh và Triệu Minh theo ông bà trở lại
Cao Nguyên. Triệu Minh nhanh trí, cầu cứu
cô bạn thân đến nhận trách nhiệm bồng đứa con cho bà cô ruột hiếm muộn ở Sài
gòn, nhưng kỳ thực là giao cho mẹ của Hội, từ quê vào đóng vai cô của người bạn
quý này. Đó là lý do vì sao cô con gái
đầu lòng của Hội sống ở nhà ông bà nội từ lúc sơ sinh, cho mãi đến sau này. Con bé không muốn về với cha mẹ nữa. Cuộc
tình lại một lần nữa chia ly. Triệu Minh
bị bắt buộc lên xe về Cao Nguyên cùng cha mẹ.
Một thời gian sau, có lẽ vì đau buồn quá, Triệu Minh trải qua một cơn bệnh
thập tử nhất sinh. Gia đình phải đưa vào
Sài gòn điều trị, nhưng bệnh tình ngày thêm trầm trọng, Triệu Minh ngày một tàn
tạ hơn. Cô đòi được gặp Hội một lần. Lời thỉnh cầu được ba cô chấp nhận, như là ân
huệ cuối cùng cho một tử tội.
Không ngờ sau khi gặp lại Hội, Triệu Minh bỗng
khỏe lại. Chẳng hiểu vì động lòng trước
mãnh lực của tình yêu hay là lo lắng sự sống còn của cô con gái, ông Phó Ty hứa
sẽ cho làm đám cưới sau khi Triệu Minh bình phục.
“Câu chuyện thật của tôi mà nghe sao giống như
những chuyện tình buồn trong tiểu thuyết!”- lời Hội nói.
Lần này, ông bà giữ lời hứa. Nhưng người từ chối lại là ông thầy Tám, cha
của Hội. Ông vừa tự ái, vừa phẫn nộ cung
cách hành xử của cha mẹ Triệu Minh. Cuối
cùng, vì thương con trai mình, và lòng thủy chung của Triệu Minh, ông chấp nhận
cuộc hôn nhân, nhưng cả hai ông bà đều không có mặt trong ngày đám cưới. Đại diện họ nhà trai hôm ấy lại chính là cha
mẹ của cô bạn quý của Triệu Minh.
Sau đám cưới, cha của Triệu Minh dự định nhờ
vào sự quen biết, xin kéo Hội về ngành Cảnh Sát và làm việc với ông. Lúc này ông không còn làm Phó ty mà đã nhận một
nhiệm vụ khác và chuyển xuống làm việc ở thành phố Nha Trang. Nhưng Hội nhất quyết khước từ. Hơn nữa, nhờ có trình độ Anh văn và một số
kinh nghiệm trong thời gian làm việc trong Chiến Dịch Phượng Hoàng, Hội vừa được
chọn theo học một khóa tình báo ở Cây Mai.
Sau khi mãn khóa được điều về một
cơ quan tình báo ở Quân Đoàn IV, làm việc tại tỉnh lỵ Cần Thơ. Trong một căn nhà nhỏ thuê bên bờ sông thơ mộng,
vợ chồng Hội thực sự sống những ngày hạnh phúc.
Hai đứa con trai khôi ngô lần lượt ra đời ở đó. Cuối năm 74, cha của Triệu Minh lại được chuyển
ra Vùng I nhận một chức vụ mới. Ông đi
trước một mình, để gia đình vẫn ở lại Nha Trang, ông sẽ thu xếp đi sau. Nhưng chỉ hơn ba tháng sau, ngày 10 tháng
3/75, Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, các tỉnh Kontum, Pleiku, có lệnh di tản, tái
phối trí chiến thuật. Rồi tướng Ngô
Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ cả Vùng 1 trong tức tưởi. Cha của Triệu Minh liên lạc vợ con cho biết
ông đang tìm phương tiện di tản, bảo cả nhà chờ ông. Nhưng rồi họ không bao giờ còn gặp lại ông nữa. Ông được ghi nhận đã mất tích. Sau ngày mất nước, Hội đưa vợ và hai con từ Cần
Thơ về Nha Trang, tạm sống chung với gia đình vợ. Hội vào tù khi cả nhà được tin cha Triệu Minh
đã chết ở bờ biển Thuận An, do mấy anh cảnh sát cộng sự với ông cho biết, nhưng
không ai biết xác thân ông bị vùi lấp ở đâu cùng với mấy ngàn người bất hạnh khác.
Khi tổ chức vươt biển cùng mấy người bạn tù,
tôi có báo cho Hội biết, và vì chiếc ghe quá nhỏ, nên Hội chỉ có thể đi một
mình, hay nhiều lắm là với một đứa con. Sau
nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng Hội đã từ chối.
Anh bảo là dù sao, anh cũng không
thể bỏ vợ con ở lại được.
Sau gần một năm ở các trại tị nạn Singapore rồi
Bataan/Phi Luật Tân, gia đình tôi được sang định cư ở Na-Uy. Khoảng hai năm sau, tôi bất ngờ nhận lá thư từ
đảo Palawan, phía sau trên bì thư, ghi tên người gởi là Hà Thị Triêu Minh. Cái tên dễ nhớ. Nội dung chỉ báo là mẹ con đã vượt biển và đến
được Palawan, đang chờ thanh lọc, cần sự giúp đỡ của chúng tôi trong thời gian
mẹ con phải sống ở đảo.
Biết chính xác đây là vợ con Hội, tôi băn
khoăn không biết vì sao Hội lại không viết thư cho tôi mà lại là vợ. Hay là vì một bất hạnh nào đó mà Hội không đến
được đất liền. Trong thư không hề nghe
nói tới Hội. Tôi liền ra ngân hàng gởi 300 đô la và viết lá
thư ngắn, mừng mẹ con Triệu Minh đến đảo và hỏi có Hội cùng đi không, tại sao
không thấy nhắc đến trong thư?
Hơn một tháng sau tôi nhận thư hồi âm. Trong gần hai trang giấy, Triệu Minh kể không
biết bao nhiêu tội của Hội. Nào là ngoại
tình với vợ của người ta, trở lại với cô bồ cũ, lấy tiền bạc từ mồ hôi nước mắt
của vợ con để bài bạc, nhậu nhẹt say sưa cả ngày, không hề có trách nhiệm gì với
mấy đứa con, nên ở lại không chịu cùng đi! Tôi khá ngạc nhiên, vì biết tính nết
Hội từ thời ấu thơ cho đến hết trung học, và gần gũi Hội cả một năm sau khi hai
đứa ở tù về. Cho dù nếu có buồn phiền,
hay bất mãn cuộc đời đến đâu, Hội sẽ không làm như thế. Từ nhỏ, Hội là một người được sự giáo dục của
cha, một vị thầy giáo nghiêm khắc. Sau
này, dù trong hoàn cảnh nào, Hội vẫn luôn trọng danh dự và giữ tư cách của mình.
Tôi liên lạc với đám bạn thân còn ở Việt Nam. Tất cả đều nói về Hội với những điều ngược lại. Họ còn bảo “nếu có một người không bao giờ đi
tu mà thành Phật, thì đó chính là thằng Hội”.
Tôi gởi thêm cho Triệu Minh một số tiền nữa, vì nghĩ tới hai đứa con của
Hội, nhưng không nhận được hồi âm. Sau
này tôi được tin Hội đã sang Mỹ theo diện HO-10, nhưng không ai biết Hội ở đâu.
Mấy năm sau, vào một mùa hè, vợ chồng tôi sang
Florida dự đám cưới con trai của anh bạn chí thân, cùng đơn vị lúc xưa và sau
tháng 4/75 lại là bạn cùng tù. Chị vợ của
anh là một trong hai cô con gái của ông bà chủ nhà ở một quận lỵ, mà trước kia,
lúc còn là hai thằng lính trẻ, chúng tôi đã đóng quân trong vườn nhà. Chúng tôi thân thiết và thương mến nhau còn
hơn cả anh em, nên khi được anh chị báo tin làm đám cưới cho con, nhân cơ hội
này, muốn họp mặt bạn bè của hai người sau bao nhiêu năm lưu lạc, vợ chồng tôi
bay sang Florida ngay. Đích thân anh chị
đón chúng tôi ở phi trường.
Anh em bao nhiêu năm gặp lại nhau, chúng tôi
ôm lấy nhau mà nước mắt trào ra lúc nào không biết. Về nhà, khách khứa đã khá đông. Bên phía đàn ông, hầu hết những người bạn
cùng đơn vị cũ, còn cánh đàn bà, đa số là bạn học của chị vợ.
Đang giới thiệu, bắt tay hỏi chào vui vẻ, tôi
nghe chị vợ nói với mấy cô bạn:
- Bây giờ, bọn mày ở nhà chơi, tao ra phi trường
đón con nhỏ Triệu Minh.
Nghe hai tiếng Triệu Minh, tôi và bà xã giật
mình nhìn nhau. Cái tên vừa hiếm hoi dễ
nhớ, vừa còn lại trong ký ức chúng tôi, với đôi điều khó hiểu. Cả vợ chồng tôi tò mò, nôn nao chờ đợi trong
hơn 30 phút. Quả nhiên, người khách đàn
bà vừa bước vô nhà chính là Hà Thị Triệu Minh.
Tuy bây giờ ốm hơn và nhan sắc có
tàn phai. Để chắc chắn, tôi hỏi nhỏ chị
bạn:
- Có phải Triệu Minh này trước có ông già làm
lớn bên Cảnh sát?
- Đúng rồi, dường như nó có chồng ở Nha Trang
với ông đó, nhưng thằng chồng nó bồ bịch lôi thôi quá nên nó bỏ lâu rồi!
Nghe chị nói, tôi có chút bực mình, nhưng chỉ
cau mày, không nói. Chị dắt Triệu Minh đến. Cô không nhận ra chúng tôi. Sau khi được chúng tôi giới thiệu về mình,
Triệu Minh nắm tay mừng rỡ, nhưng trong đôi mắt vẫn u buồn và có điều gì đó
không mấy tự nhiên. Triệu Minh cám ơn
chúng tôi đã gởi biếu tiền cho mẹ con cô khi còn ở đảo Palawan. Cô cho biết mẹ con đang định cư ở thành phố
Salt Lake City, thuộc tiểu bang Utah, đứa con đầu vừa mới vào đại học. Chúng tôi chúc mừng cô và hỏi tin tức về Hội,
Cô khựng lại giây lát rồi cúi xuống, trả lời:
- Nghĩ tình cha của mấy đứa nhỏ, em bảo lãnh
anh ấy về ở với mẹ con em, nhưng cũng với cái tánh trai gái rượu chè, chẳng lo
lắng gì cho con, nên em tống ra khỏi nhà.
Nghe nói bây giờ đang ở đâu đó dưới Cali! Tôi ngỏ ý xin địa chỉ hay là số
điện thoại của Hội, nhưng cô ta bảo đã không còn liên lạc từ lâu lắm. Và đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp
Triêu Minh.
Hôm nay, gần hai mươi năm sau, tôi bất ngờ gặp
lại Hội. Không ngờ bây giờ tiếng sáo của
Hội hay đến mê hồn người như vậy. Buổi
ra mắt sách chưa chấm dứt, Hội bảo tôi ra xe để Hội đưa về nhà. Anh em xa cách bao nhiêu năm, giờ gặp lại sẽ
có biết bao nhiêu điều để nói. Tôi dắt
tay Hội đến giới thiệu với người bạn, và bảo Hội cho anh ta địa chỉ để nhờ anh
đến đón tôi trước tám giờ tối, vì Hội cho biết phải đi làm ca đêm. Hội ở
trong một garage thuê của một người quen ở thành phố Anaheim. Cái
garage được sửa sang lại, đủ để một cái giường nhỏ và một cái bàn. Tất cả
phần còn lại, là một phòng thu âm nhỏ, với một số máy móc. Hội bảo đây là nơi thu âm tiếng sáo của Hội đệm
cho những giọng ngâm, giọng ca của bạn bè văn nghệ. Đặc biệt có nhiều ca sĩ nổi danh từng ra vô
cái garage chật hẹp, nghèo hèn này. Thấy
trên tường có tấm ảnh của một cô gái phóng lớn.
Trông đẹp và quí phái. Mới nhìn,
tôi tưởng một cô ca sĩ nào đó, nên hỏi Hội.
Anh cười không trả lời mà hỏi lại tôi:
- Bạn không còn nhớ là ai đó hay sao?
Thấy tôi chau mày suy nghĩ, Hội bảo:
- Là Triệu Minh đó, lúc còn con gái, trước khi
tụi này làm đám cưới!
Tôi à lên một tiếng rồi cười trêu Hội:
- Coi bộ vẫn còn yêu nàng hay sao mà treo ảnh
nàng trang trọng thế? Hỏi câu ấy, tôi không ngờ vô tình chạm tới vết thương
trong lòng Hội.
Anh tắt mất nụ cười, buồn bã:
- Sau khi mình vào tù hơn một năm, thì Triệu
Minh có con với tên thiếu tá công an VC ở Nha Trang. Cha mẹ mình biết rõ điều này. Mặc dù Minh cho biết là trong một chuyến đi
buôn cà phê, cô ta bị bắt và cả một bọn công an gài bẫy để phải uống thuốc mê
cho gã thiếu tá trưởng đồn cưỡng hiếp, vì hắn ta quá mê mệt trước nhan sắc của
nàng. Trước hoàn cảnh này, ba mẹ mình dù
rất đau lòng nhưng cũng đành phải im lặng, khóc thầm. Những tưởng đến đó cũng đủ làm cho mọi người
thấm thía tận cùng đau đớn, nhưng rồi tên thiếu tá công an không từ bỏ dục vọng. Hắn ta càng mê Triệu Minh hơn. Quyết định ly hôn với bà vợ quê mùa còn ngoài
Hà Nội, và chiếm đoạt Minh vĩnh viễn cho mình.
Hắn ta bỏ một số tiền lớn cho Triệu Minh mở sạp buôn khá lớn ở chợ Đầm. Vừa dùng quyền lực gian manh, vùa tung tiền
tham nhũng được, sau một thời gian quỳ mọp dưới chân nàng, hắn ta gần đạt được
mục đích. Ba mẹ mình biết được điều này.
Mẹ mình thì hiền lành chỉ khóc, nhưng Ba mình
thì đến thẳng nhà đòi bắt hai thằng cháu nội và dứt khoát từ Minh, không chấp
nhận nàng là con dâu nữa. Riêng đứa con
gái lớn được cha mẹ mình nuôi từ lúc mới sinh, từ chối về với mẹ mà xin được ở
luôn với ông bà nội nó.
Đúng thời điểm bi đát ấy, thì mình được ra tù. Khi được ba mình kể lại mọi điều, lòng mình
đau đớn lắm, nhưng dù sao cũng còn mấy đứa con chung, và nhất là trong lòng
mình vẫn còn in đậm hình ảnh của Triệu Minh trong những ngày nàng sống chết để
được làm vợ mình. Mình xin cha mẹ mình
tha thứ cho nàng, nếu từ nay nàng dứt khoát rời bỏ tên công an vô lại.
Tranh luận thật nhiều, cuối cùng vì hai đứa
cháu nội, ông đồng ý cho mình gặp lại Triệu Minh, nhưng nàng không được phép đến
nhà ông. Chính vì vậy mà ông cho mình ra
ở căn nhà kho, mà ngày xưa vợ chồng bạn có đến thăm.
Tôi nôn nao, ngắt lời Hội:
- Rồi sau đó Minh có dứt khoát với hắn ta
không?
Hội buồn bã trả lời:
- Minh nói là không hề yêu hắn ta, ban đầu còn
thù ghét hắn, nhưng dần dà từ tội nghiệp rồi đến thương hại khi thấy hắn ta quá
si mê mình. Hắn bảo sẵn sàng bỏ đảng, bỏ
ngành, bỏ mọi chức tước để chỉ được nàng.
Hơn nữa dù sao hắn ta với nàng cũng đã có một đứa con gái. Minh thường bảo cái trợt chân ấy đã đưa cuộc
đời nàng đi đến một ngã rẽ quá xa, khó mà đứng lên lại được. Hắn còn đòi được gặp mình để xin mình ký giấy
ly dị, giao Minh cho hắn. Hắn bảo đảm sẽ
lo cho Minh và cả mấy đứa con của mình được sung sướng.
- Rồi bạn có gặp hắn ta?
- Không! Dù cái tì vết quá lớn, nhưng mình
không thể để mất Minh. Mình sẵn sàng bỏ
qua hết mọi chuyện, làm khai sinh cho đứa con gái riêng của Minh là con ruột của
mình, khuyên Minh nên trả tiền bạc tài sản lại cho hắn ta, và trả hắn ta về cho
vợ con của hắn, đang khốn khổ ở Hà Nội. Nhưng khi Minh đến gặp hắn để nói lại điều
này, hắn trở giọng hăm dọa, bảo là sẽ cho đàn em bắt mình vào tù trở lại, hay sẽ
tìm cách thủ tiêu mình, làm Minh càng thêm lo sợ tai ương sẽ ụp xuống trên đầu
mình. Sau đó lòng mình luôn bất an, không tin là
trong hoàn cảnh khó khăn, Triệu Minh có thể dễ dàng trút bỏ mọi sợ hãi và cám dỗ
tiền bạc để về sống với mình, bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, nên mình đi chạy
vạy vay mượn bà con bè bạn ít tiền, hùn hạp làm đìa nuôi tôm để vợ chồng cùng
làm ăn, sinh sống. Nhưng đúng vào lúc
đó, thì Minh và gia đình nàng xảy ra tai họa.
Bà vợ Bắc kỳ của tên thiếu tá công an từ ngoài Hà Nội vào, dẫn theo một
đám xã hội đen, chuyên đâm thuê chém mướn, đến tận sạp buôn của Minh đập phá,
đánh đập Minh tàn nhẫn, lột cả áo quần và cắt hết tóc. Đã vậy còn lôi về nhà mẹ Minh hành hung, và bắt
buộc trong vòng một tuần, tất cả mọi người phải biến khỏi thành phố này, đi đến
một nơi nào đó thật xa, không ai được biết, nếu không sẽ lãnh tai họa. Triêu Minh bán gấp nhà cửa và tất cả đồ đạc,
cùng cả nhà chạy vào nhà bà dì ở Rạch Giá và tìm mối vượt biển sau đó. Hơn một tuần sau, mình dắt đứa con gái lớn
vào thăm, ngôi nhà đã đổi chủ, và chẳng biết mẹ con Minh và gia đình nàng đã đi
đâu.
- Như vậy tại sao sau này Triêu Minh lại đối xử
tàn tệ và đi nói xấu về bạn? Tôi thắc mắc.
- Ban đầu chính mình cũng không hiểu. Dần dà mình nghĩ là Triệu Minh tìm mọi cách để
làm mình phải xa lánh mẹ con Minh. Có thể
từ mặc cảm tội lỗi, nhưng muốn giữ thể diện với bạn bè, và nhất là với các đứa
con ngày càng khôn lớn, nên nàng đã đổ hết bao nhiêu tội lỗi lên đầu mình. Khi
nàng và gia đình vượt biển đến được đảo Palawan, đúng vào thời kỳ Cao Ủy Tị Nạn
LHQ đóng cửa các trại, tất cả đều phải qua thanh lọc. Mẹ con Minh và cả gia đình đều bị từ chối vì
chẳng có giấy tờ gì chứng minh là vợ con của sĩ quan VNCH, lúc ấy Minh mới viết
lá thư gởi về cầu cứu mình, Cha mẹ mình và tất cả bạn bè ai cũng can ngăn,
nhưng mình đã âm thầm làm bản sao Giấy Ra Trại và gởi gấp cho nàng. Nhờ có tấm giấy này của mình mà cả nhà mới được
đến Mỹ.
- Vậy tại sao khi bạn đi HO đến Mỹ, lại không ở
với mẹ con nàng. Chính cô ta bảo là đã tống
bạn ra khỏi nhà?
Hội cười hiền lành, như chẳng có điều gì phiền
muộn:
- Thực ra cô ấy không hề xô đuổi mình. Lo lắng và chăm sóc mình, nhưng luôn tìm cách
lẫn tránh mình. Xa lạ đến lạnh lùng. Nhiều lần mình nghe tiếng nàng khóc. Và không biết ba đứa con, hai đứa của mình và
một đứa con riêng của cô ta, bị ảnh hưởng thế nào, nhìn mình như một người xa lạ. Trong nhà không bao giờ nghe được tiếng cười. Mình có cảm giác như địa ngục. Hơn ba tháng, dù với tất cả nhẫn nhịn, chiều
chuộng, cuối cùng mình đành phải bất lực ra đi, với hy vọng trả lại niềm vui và
không khí gia đình cho mấy mẹ con nàng. Trong
ba tháng ấy, chỉ có cậu em của cô ta thường gần gũi tâm sự với mình.
Chính cậu ta đã kể lại tất cả những gì đã xảy
ra. Hôm tiễn mình lên xe về đất Cali
này, cậu đã trao lại cho mình một số tiền và lá thư của Triệu Minh nhờ chuyển
cho mình. Lá thư chỉ là tấm giấy nhỏ,
ghi vỏn vẹn một dòng: “Xin hãy tha thứ cho em, và xem như Triệu Minh đã chết từ
lâu rồi, không còn trên trần gian này nữa”.
Và đến nay cậu ấy là người duy nhất giữ liên lạc với mình, luôn tỏ ra
kính mến mình.
- Sau này, Hội có dịp nào gặp lại Triêu Minh
hay hai đứa con trai của Hội?
- Có một lần, khi thằng con trai lớn làm đám
cưới, mình có nhận được thiệp báo tin và thiệp mời. Mình cũng vui mừng lắm, dù đọc trong thiệp báo
tin, không thấy có tên mình, mà chỉ có tên mẹ nó. Mình vội vàng đi mua một bộ đồ veston mới, mượn
trước một số lương, để bay lên mừng con, và cũng có dịp gặp lại Triệu Minh. Nhưng buổi tối trước ngày đi, thằng con lại gọi
phôn (ông cậu cho nó số phôn), bảo là mình không nên lên, vì cái thư mời là do
cậu nó bảo nó gởi, chứ không có ý kiến của mẹ.
Nếu mình muốn đi, thì phải gọi xin phép mẹ nó. Nhưng rồi nó lại hạ giọng: “Con không có chút
hy vọng gì là má sẽ OK!”. Cuối cùng đành
phải bỏ chiếc vé máy bay. Mình buồn,
nhưng không trách Triệu Minh. Rồi mới đây,
bất ngờ lại gặp thằng em của nó. Nghe
nói cũng tốt nghiệp kỹ sư hàng không và đang làm cho hãng Continental. Nó sắp cưới vợ, nên rủ con vợ tương lai đi
chơi một vòng ở Las Vegas, rồi sau đó ghé lại Little Saigon mua một ít nữ trang
và vật dụng dành cho ngày cưới. Nó gọi
phôn hẹn gặp mình phía trước Phước Lộc Thọ.
Mình mừng lắm, quên hết mọi chuyện, chỉ mong gặp lại thằng con ruột thịt,
để xem bây giờ mặt mũi nó ra sao.
Tôi lái xe đến gặp nó và vị hôn thê. Cô dâu chào bắt tay tôi vui vẻ, nhưng thằng
con thì nhìn tôi dửng dưng xa lạ. Tôi
thoáng buồn nhưng kịp trấn tĩnh, vì nghĩ là từ lúc mới sinh ra cho đến bây giờ,
nó có sống với tôi bao lâu đâu. Mời hai
đứa đi ăn, nó từ chối, bảo chỉ cần uống nước. Chúng tôi ngồi tạm trong cái quán nhỏ bên
trong Phước Lộc Thọ. Nó bảo là tụi nó sẽ
làm đám cưới vào hai tuần tới tại Maryland.
Trước khi đi cậu nó cho số phôn của tôi và dặn nó nhờ tìm gặp tôi khi
ghé lại Little Saigon. Uống nước xong,
nó đứng dậy móc bóp cho tôi tờ giấy 100 đô la.
Con bồ của nó nói một tràng tiếng Mỹ, tôi hiểu là “tại sao lâu ngày mày
gặp lại daddy của mày mà mày chỉ cho có 100!”.
Nó móc bóp lấy thêm tờ 50 đưa cho tôi.
Tôi ngượng ngùng, định từ chối, nhưng rồi sợ nó buồn, hơn nữa nghĩ tới đứa
con gái lớn, là chị ruột của nó, đang sống thiếu thốn ở nhà ông bà nội bên Việt
Nam, tôi nhét vào túi áo, nói cám ơn hai đứa.
Sau đó tôi bảo nó chờ vài phút, rồi chạy đến tiệm hoa gần đó mua một bó
huệ trắng. Quay lại, tôi xúc động nói với
hai đứa: “nhà ba ở rất gần đây, chạy xe chỉ chừng bảy, tám phút. Ông nội con vừa mất, hôm nay là 49 ngày. Lúc con còn nhỏ, ông nội rất thương con. Bây giờ hai đứa con có mặt ở đây lại sắp làm
đám cưới, ba muốn hai con ghé lại thắp cho ông nội cây nhang. Ở nơi chín suối, chắc ông vui lắm”. Con bồ nhìn nó gật đầu, nhưng tôi rất bất ngờ
và hụt hẫng khi nghe nó nói: “Để lần khác, hôm nay con không có nhiểu thì giờ!”
Kể xong câu chuyện khá dài, Hội vẫn dửng dưng
nhìn lên trần nhà như đang tìm kiếm một vật gì, trong lúc lòng tôi đau như dao
cắt.
Để cho Hội trầm ngâm một lúc, tôi lên tiếng:
- Tôi tội nghiệp bạn, nhưng không hiểu được bạn. Tại sao trước một nỗi đau như thế mà nhìn bạn
vẫn thấy bạn thản nhiên, có khi còn cười nữa, cứ như không?
Hội nắm tay tôi, xuống giọng:
- Mình đã quen rồi. Hơn nữa cả dân tộc đều tan tác bi thương qua
cuộc thăng trầm quá lớn ấy, nỗi đau của mỗi một chúng ta đâu còn có nghĩa gì. Tất cả chỉ đáng thương hơn là đáng trách!
Tôi nhìn Hội, lắc đầu:
- Nhưng ít nhất, bạn cũng phải giải thích, nói
lên sự thực, để mấy đứa con của bạn nó hiểu chứ. Chẳng lẽ cứ để các cháu cứ nghĩ xấu về bạn, thờ
ơ, đối xử tệ bạc với cha của nó mãi như vậy hay sao?
Im lặng một lúc, Hội lên tiếng:
- Thôi, chuyện đã như vậy rồi. Vả lại dù sao mẹ chúng nó cũng đã chịu đựng
bao nhiêu khổ cực đắng cay để nuôi nấng bọn nó từ thuở còn tấm bé, đến bây giờ
đã thành đạt, nên người. Đó chẳng phải
là điều mà những người cha bất hạnh như bọn mình mong ước hay sao? Tốt nhất là
hãy để chúng nó luôn nghĩ tốt và hết lòng kính trọng, yêu thương mẹ nó!
Nhớ tới lời mấy thằng bạn còn ở quê nhà, tôi
buột miệng:
- Hèn gì đám bạn bè bảo là bạn không hề đi tu
mà đã đắc đạo rồi.
Hội nở một nụ cười, nhưng không trọn, rồi như
mới nhớ ra điều gì, anh kể tiếp:
- Cách nay vài tháng, Triệu Minh có dắt đứa
con gái riêng về Việt Nam để gặp cha ruột của nó. Nghe nói hắn ta cũng đã tìm cách móc nối tổ chức
vượt biển sau ngày Minh đến đảo Palawan, nhưng bị bắt vào tù, mất hết đảng tịch
và bị sa thải khỏi ngành công an. Sau đó
làm nhân viên bảo vệ cho một khách sạn nào đó ngoài Hội An, Đà Nẵng, nhưng đang
bị bệnh rất nặng. Ung thư phổi thời kỳ
cuối.
- Như vậy Triệu Minh vẫn còn nghĩ đến hắn ta?
Trầm ngâm một lúc, Hội lên tiếng:
- Cô ta làm thế cũng phải. Dù gì cũng là tình phụ tử mà. Hơn nữa cũng vì nàng mà hắn ta mới ra nông nỗi. Sau đó cô ta có về quê mình thăm đứa con gái
đầu lòng. Từ lúc mới sinh cho đến bây giờ
nó vẫn ở nhà ông bà nội. Nối nghiệp ông
nội: dạy học, và đã có chồng con. Nó là
đứa con duy nhất hiểu rõ chuyện của mình với mẹ nó, nên thường viết thư, gọi điện
thoại hỏi han an ủi mình. Mấy lần nó phản
đối mẹ nó và có ý định nói hết sự thực cho hai đứa em nó biết, nhưng mẹ nó năn
nỉ và chính mình cũng can ngăn. Tôi bảo
nó nên hiểu và thương mẹ nó. “Vì một
mình phải nuôi dạy các con lớn lên ở quê người, mẹ cần sự kính trọng và vâng lời
của các em con, mà đành phải đổ hết tội lên đầu ba. Ba nghĩ làm như vậy, chắc mẹ con cũng đau
lòng ghê lắm. Người cần yêu thương và an
ủi, chính là mẹ của con, chứ không phải là ba”.
- Vậy mẹ nó có tâm sự gì với nó về bạn hay
không? Tôi tò mò hỏi.
- Cháu có bảo là mẹ nó cũng ân hận lắm. Bà cũng nhớ tôi và mặc cảm tội lỗi quá lớn,
khi ít nhiều gì cũng đã phản bội tôi mà còn phải nói với mọi người và nhất là với
các con những điều xấu xa không đúng về tôi.
Bà thường nhờ con gái chở bà ra
nghĩa trang thắp hương trước mộ cha mẹ tôi và ngồi khóc sụt sùi. Nhiều lần bà có ý định đi tìm tôi, xin tha lỗi
và trở lại với nhau, nhất là sau khi các con đã lớn và ra sống riêng, bà cô đơn
một mình. Nhưng rồi bà không đủ can đảm,
khi nghĩ là tất cả mọi thứ đều đã vượt quá xa giới hạn của nó rồi. Bà bảo, “Chiếc bình cổ đã vỡ tan tành, không
thể nào có thể hàn gắn từ những mảnh vụn, mà một số cũng đã mất mát rơi rớt
theo thời gian”. Bà có ý định về lại Viêt
Nam, sau khi cô con gái út lấy chồng. Sẽ
quy y, tu ở một ngôi chùa trên Cao Nguyên.
Nơi mà ngày xưa, lúc gặp phong ba trắc trở trong tình yêu với mình, bà
đã đến đó để cầu xin và thệ ước.
Tôi hơi bất ngờ và thoáng một chút ngậm ngùi:
- Dù sao cũng tội nghiệp! Tất cả cũng chỉ là hệ
lụy từ một cuộc chiến phi lý mà đám người thắng trận lại là một lũ bất lương. Tôi nghĩ bạn nên tìm gặp nàng, nói một câu thứ
tha cho nhẹ lòng. Không phải nhẹ lòng cho
riêng nàng mà cho chính cả bạn nữa. Và nếu
được, thì sống lại với nhau, coi như đôi bạn trong tuổi già.
Hội cúi xuống, đôi mắt dường như nhắm lại. Suy nghĩ một lúc rồi hạ giọng:
- Mình đã nhờ đứa con gái nói với nàng điều ấy. Nhưng nàng chưa muốn gặp mình, chỉ xin cám ơn
và khuyên mình hãy cố quên đi tất cả. Nàng
bảo: ”Đời là bể khổ. Giờ đã cuối đời thì
vướng bận thêm nữa mà làm gì”. Cả đứa con gái của mình cũng đồng tình. Cháu bảo “con thấy như thế vẫn hay hơn, chứ mỗi
ngày ba má nhìn thấy nhau, dễ nhớ lại chuyện xưa rồi cũng chỉ buồn khổ hơn
thôi!”
Nghe Hội nhắc tới cô con gái còn ở quê nhà,
tôi hỏi:
- Sao bạn không bảo lãnh gia đình cháu gái lớn
sang Mỹ sống với bạn cho vui?
Hội lắc đầu:
- Vợ chồng nó không muốn. Dường như nó ngại phải chọn ở với cha hay với
mẹ. Vậy cũng hay. Chứ sang đây nó thấy mình cơ cực lại buồn
thêm. Còn mình, khi nào rảnh rỗi, chạy đến
viện dưỡng lão săn sóc, giúp đỡ cho mấy ông bà cụ đã quá già mà chẳng có con
cái chăm nom, mình cũng thấy vui.
Tôi định nói một câu để khen và an ủi, thì Hội
vội xem qua đồng hồ rồi kéo tôi đứng dậy.
Đúng lúc cả hai thằng đang đối diện với bức ảnh lớn của Triệu Minh treo
trên vách.
Tôi hỏi lại Hội một câu đã hỏi lúc mới vào
nhà:
- Nghĩa là bạn vẫn còn yêu Triệu Minh?
- Đúng, mình vẫn thiết tha yêu Triệu Minh,
nhưng mà Triệu Minh ngày xưa, cái thời nàng và mình mới yêu nhau, và nhất là vì
yêu mình mà dám bỏ tất cả. Cuộc tình đó
đẹp quá đi chứ, phải không? Đến bây giờ, nhiều đêm mình vẫn nằm mơ thấy nàng. Chỉ những giấc mơ ấy thôi cũng đủ cho mình thấy
hạnh phúc và quên hết mọi biến cố sau này.
- Bây giờ bạn đã có cô bạn gái nào, và có tính
kiếm một cô vợ khác để có nhau trong tuổi già?
- Có chứ, mình đang có cô bạn, Bích Loan vừa
ngâm thơ với mình chiều nay đó. Giọng
ngâm của cô hay lắm. Trước kia là cô
giáo ở Pleiku. Nhưng tụi mình chỉ xem
như là bạn cho vui, chứ trong lòng mình không còn có tình yêu, trái tim của
mình không còn biết rung động kể từ sau cuộc tình với Triệu Minh.
Bỗng nhớ tới một điều, tôi hỏi Hội:
- Và dường như nhờ tình yêu ấy mà tiếng sáo của
bạn mới tuyệt vời?
Hội cười, đưa tay lên vách lựa lấy một cây sao
trúc đưa lên miệng thổi một đoạn trong bài Love Story. Khi chấm dứt, Hội hỏi tôi:
- Bạn có còn nhớ ra cây sáo trúc này không?
Tôi lắc đầu. Hội chìa cây sáo ra trước mặt
tôi:
- Chính là cây sáo cũ, mà ngày mình còn đi học
ở Nha Trang, ông thầy ngưởi Huế đã tặng mình, khi bảo mình là “đứa học trò có
năng khiếu sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”.
Tôi gật đầu đắc ý, định khen Hội một lời,
nhưng dường như Hội đã đọc được ý nghĩ đó, anh xua tay:
- Không, ông Thầy nói không đúng hẳn. Có thể là mình có chút năng khiếu, nhưng năng
khiếu không thể tạo được linh hồn.
Thấy tôi ngớ ra chưa kịp hiểu, Hội tiếp lời:
- Chính hình ảnh của Triệu Minh, cùng với tất
cả những hạnh phúc, đắng cay ấy đã làm nên linh hồn cho cây sáo!
Tôi cầm săm soi cây sáo đã khá cũ, đưa lại cho
Hội rồi buột miệng:
- Không ngờ qua biết bao thăng trầm, bạn vẫn
còn giữ được cây sáo…mà lại không giữ được Triệu Minh.
Vừa nói xong, biết mình lỡ lời, định nói một
câu xin lỗi thì điện thoại reo. Người bạn
báo đã đến chờ phía trước. Tôi đứng lên
nắm tay Hội, nhắc lại một kỷ niệm xưa, lúc hai thằng còn nhỏ. Chuyện Hội đã bảo tôi đem thả con cuốc chúng
tôi vừa vui mừng bẫy được, sau khi nghe cha tôi bảo con cuốc ấy là hóa thân của
Vua Thục Đế, vì mất nước mà khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành chim, cất
lên những tiếng kêu khắc khoải, não nùng.
Hội ôm chặt vai tôi:
- Không ngờ bây giờ bọn mình cũng là hai con
quốc quốc.
Chia tay Hội, mở cửa bước ra ngoài. Đang giữa mùa hè mà sao những ngọn gió làm
tôi buốt lạnh. Và dường như trời cũng vừa
mới đổ thêm xuống một cơn mưa.
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment