Sáng 30-4-75, tôi dựng xe honda ở bờ sông Sài Gòn, đứng nhìn chiếc
tàu hải quân của VNCH cuối cùng rời bến. Người ta bỏ lại xe hơi, xe
honda, xuống tàu thong thả như một chuyến du lịch. Trong đầu tôi không
có một chút xíu nào nghĩ rằng đó là lần họ vĩnh viễn rời đất nước.
Thế nhưng không hiểu sao tôi lại đứng như trời trồng, không theo họ.
Làm một cuộc viễn du cũng thích thú lắm chứ. Nếu như đất nước sau nầy
tốt, đối xử tử tế thì mình lại trở về, có sao đâu. Cái ân hận nầy làm
cho tôi ray rứt mãi, nhất là những ngày đói khát, thất tha thất thểu ở
Sài gòn… Những đêm tập trung “ngụy quân, ngụy quyền” ra phường hội họp,
ngồi dưới đất nghe người thắng trận trong rừng mới ra, mang dép râu, đội
nón tai bèo, xối xả chửi vào mặt người ngồi nghe là thứ bán nước, theo
chân đế quốc, “ngụy” tặc. Thấm đau cho cái ngu si không biết chọn lựa
của mình, để bây giờ phải lỡ khóc lỡ cười.
Tôi lên xe honda chạy qua Khánh Hội, người ta đang mở kho vơ vét. Tôi
dừng xe ngồi nhìn. Một tay thuộc loại “anh chị” khiêng bao gạo 50 kí-lô
trên vai hỏi tôi có cần mua không? Tôi gật đầu. Anh ta ném bao gạo trên
yên sau xe honda của tôi, không cần biết tôi đưa bao nhiêu tiền, anh
trở vào kho vác bao khác ra ngoài, đứng dáo dác không có ai mua, anh cho
tôi thêm một bao nữa để phía trước xe mà không lấy tiền thêm. Cửa kho
mở rộng, ai muốn vào lấy cũng được, tội gì phải bỏ tiền ra mua. Tôi chạy
xe về nhà người bạn tôi đang ở nhờ. Yên tâm trong bụng không sợ đói.
Tôi chạy qua lại tìm mua một thùng nước mắm, hàng “hôi của” nên trả bao
nhiêu tiền cũng được. Như vậy, tôi vững bụng không còn sợ thiếu ăn trong
những ngày sắp tới, trong những ngày tranh tối tranh sáng, vô chính
phủ.
Về nhà mua một lít đế, mấy miếng khô cá, tôi và thằng bạn vừa nhâm
nhi, vừa mở radio nghe ông Dương Văn Minh đọc diễn văn bàn giao đất nước
lại cho người thắng trận. Xem như hạ màn một cách nhanh chóng, chế độ
Miền Nam cáo chung, nhường sân khấu cho cộng sản điều hành đất nước. Hòa
bình mà toàn dân khao khát đang thực sự “hiện thực”. Thế nhưng lòng
người tan hoang, những chính sách sắt máu ụp trên đầu dân chúng. Đốt
sách, cải tạo, đánh tư sản mại bản, đổi tiền v.v… toàn những món dân
Miền Nam không thể nuốt trôi, ói ra máu.
Đường phố áo quần lính chất đống, người người đi trên phố khuôn mặt
ngơ ngác, không ai biết được mình sẽ đi về đâu. Mấy người trai trẻ hàng
xóm mà tôi biết là những người lính Miền Nam, đi ngang qua nhà nhập vào
uống rượu với tụi tôi. Hết lít nầy họ chạy đi mua lít khác. Tụi tôi ngồi
nhậu tới chiều. Một bữa nhậu mà không có một tiếng nói to, âm thầm
uống, hồn ai nấy giữ. Xong cuộc nhậu tự động ra về, chỉ chào nhau bằng
cái gật đầu nhè nhẹ. Tôi thấy mọi người đều “xanh mặt”, mệt mỏi, lo sợ,
như chờ đợi một cái gì không may ụp trên đầu mình.
Ngày hôm sau, có những người mang băng đỏ trên tay xuất hiện trong
xóm và điều khiển xe cộ trên đường phố. Trong xóm tôi ở đường Minh Mạng,
Phú Nhuận, có một ông ca sĩ nổi tiếng Sài Gòn, lái chiếc xe jeep của
người anh trước đây là trung tá của Miền Nam đi Mỹ để lại, trên xe ông
và những người mang băng đỏ chạy khắp Phú Nhuận, hò hét như các tay
“cách mạng” thứ thiệt. Có lẽ thời điểm nầy tôi đã chứng kiến biết bao
khuôn mặt tráo trở, họ không có một chút xíu ngượng ngùng, tiếp tay chỉ
điểm, đắc lực làm tay sai. Quả thật, tụi tôi hồi đó không sợ những người
cộng sản, mà sợ những thành phần nầy, họ làm bất cứ việc gì để lấy
điểm. Nên tụi tôi thấy họ phải lo tránh xa. Không loại trừ thành phần
nào trong xã hội Miền Nam, đâu cũng có thứ nầy. Qua Mỹ lại thấy ông ca
sĩ nầy mặc đồ lính rằn ri hát những bài ca của lính. Họ thay đổi còn hơn
tắc kè. Đúng là cuộc sống đầy những nhiễu nhương.
Bây giờ kể lại những chuyện nầy như kể chuyện đời xưa, nghe lại thấy
tức cười. Tội nghiệp cho những con người yếu đuối, vì tìm một chỗ yên
thân mà họ phải táng tận lương tâm, làm những chuyện ruồi bu. Mấy ông có
người thân đi tập kết về thì dựa hơi, bắt nạt người khác, hoặc to tiếng
khẳng định lập trường của mình. Trong lúc chưa có người thì người ta để
yên, mượn tay các ông để răn đe người khác. Khi có đầy đủ nhân sự thì
cho các ông “chầu rìa”. Lúc đó các ông mới biết cái “lố bịch” của mình
đối xử với anh em thì đã muộn. Có người phải tránh mặt anh em vì khi gặp
nhau ngượng ngùng mắc cỡ. Có người bắt đầu ngồi quán café chửi đổng vì
bị thất sủng.
Có lẽ trong buổi giao thời, tranh tối tranh sáng, mình mới thấy được
những bộ mặt “ghê tởm” nầy xuất hiện. Họ như những tên hề đứng trên sân
khấu múa may mà không biết trơ trẽn, lớn tiếng chỉ trích anh em có chút
máu “ngụy”, như một tay cách mạng chính hiệu. Cái trò chỉ điểm, tố cáo
để kiếm điểm, tìm một chút địa vị, lúc ấy thật đáng sợ, anh em thiêm
thiếp chịu trận, không dám hé răng. Cái bối cảnh lúc ấy thật nhố nhăng,
thật sắt máu, nghi kỵ lẫn nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Những người
lập công cho “cách mạng” kiểu nầy dần dần bị đào thải, anh em thì xa
lánh. Họ thui thủi như một bóng ma. Cho đến bây giờ thời gian quá lâu,
mọi chuyện đã phôi pha, trong lòng mọi người không ai muốn nhớ lại.
Những năm đầu “giải phóng” người Miền Nam không ai ra được Miền Bắc
để trông thấy ngoài ấy ra sao. Tôi có một thằng bạn thuộc “gia đình cách
mạng”, muốn đi một chuyến ra Bắc, thế nhưng phải năm lần bảy lượt mới
đi được, phải cỡ thứ trưởng bảo lãnh mới được cấp giấy cho đi. Sau khi
trở về hỏi gì nó cũng không nói chỉ lắc đầu. Một bữa tôi với nó đi uống
café, nó nói nhỏ vào tai tôi là trước khi nhận giấy ra Bắc, người ta dặn
không được nói với ai về cuộc sống ngoài đó, nên nó không dám nói
chuyện nầy với ai. Sau mấy đêm suy nghĩ, nó tự thấy như vậy là không
đúng, tại sao không nói cho thiên hạ biết “chiếc nôi” của chủ nghĩa xã
hội, cái thiên đường đã đánh đổ Miền Nam để cả nước cùng tiến lên. Nó
không thể nào tưởng tượng Miền Bắc nghèo đói và lạc hậu đến thế. Phố xá
cũ kỹ dơ bẩn, ngoài đường áo quần chỉ mỗi một màu ô-liu, thỉnh thoảng
mới thấy màu xanh đậm, hình như cho công nhân, họa hoằn lắm mới thấy
chiếc áo trắng, còn xe đạp bạt ngàn, không thấy có một chiếc xe gắn máy
nào, nếu có thì chắc từ Miền Nam mang ra. Hà Nội dưới mắt nó sao thấy
thảm thương quá chừng. Sau đó nó nói với tôi bằng giọng mỉa mai, “Tiến
lên xã hội chủ nghĩa như vậy đủ rồi, còn tiến mạnh tiến nhanh thì chắc
chết quá mầy ơi”.
Mười năm sau (1985), tôi có việc phải ra Miền Bắc vì mấy cái hợp đồng
với thương nghiệp ngoài đó. Tôi đứng giữa Hà Nội mà lòng thấy se thắt.
Mấy chục năm, người dân “văn vật” chịu đựng một cách dai dẳng mà không
nổi loạn nghĩ cũng lạ thật. Áo quần nghèo nàn nhưng con gái Hà Nội mặt
mày sáng chưng, phần đông đẹp hơn các thành phố trong Nam. Dưới con mắt
tôi, cái thanh lịch chỉ còn lại trên nét mặt của người con gái Hà Nội,
còn bao nhiêu cái khác, sau ba mươi năm xã hội chủ nghĩa đã tẩy sạch
hết, tiêu tan hết.
Mấy năm trước đây, tôi gặp nhiều văn nghệ sĩ Hà Nội qua Boston theo
chương trình của William Joiner. Trong lúc trà dư tửu hậu, tôi có nói
với họ về chuyện ra Miền Bắc của tôi năm 1985. Họ đều cười và nói với
tôi rằng có dịp bây giờ nên ra Miền Bắc một chuyến, mọi thứ đều thay đổi
một cách chóng mặt. Cái chính sách xã hội chủ nghĩa chỉ còn trên lý
thuyết, người dân bây giờ giàu có, không còn tiến nhanh tiến mạnh như
khi xưa, mà họ chạy đua theo kịp đà tiến hóa của tư bản. Đó là một bước
tiến đáng mừng cho dân chúng, để họ được hưởng những tiện nghi, những
phúc lợi mà thế giới đã giành được qua những phát minh phụng sự cho con
người. Đứng trên phương diện nhân bản, thật đáng mừng cho những mảnh đời
tưởng rằng sẽ sống trong tăm tối mãi mãi. Bây giờ ấm no hơn, thoải mái
hơn, tuy nhiên vẫn còn bị những rào cản về tự do, dân chủ còn bị siết
chặt.
Tôi có dịp lên Thái Nguyên, nhìn những cánh đồng chè bạt ngàn, những
người hái chè buổi sáng sớm trong sương mù thật tội nghiệp. Đồng lương
công nhân của công ty chè quốc doanh không bao nhiêu, mà phải chịu cực
khổ một cách nặng nề. Tôi cũng có dịp đi Quảng Ninh, trông thấy công
nhân mỏ than lam lũ trong hầm mỏ. Không biết những nhà lãnh đạo của giai
cấp nầy trước đây có giống như anh chị em công nhân, mặt mày lấm lem,
sống trong điều kiện kham khổ như vậy không. Chứ khi ấy nhìn họ thấy
không khá nổi. Còn nhiều cảnh thật tang thương cho một chế độ xã hội chủ
nghĩa mà họ ca tụng như là thiên đường. Thú thật tôi vỡ mộng.
Trước đây tôi không tin những gì mà bộ máy tuyên truyền của Miền Nam
nói về Miền Bắc. Tôi không tin những tác phẩm của Xuân Vũ nói về chế độ
Miền Bắc. Tôi cho đây chỉ là những tuyên truyền rẻ tiền để hạ nhau, chứ
thực tế không đến nỗi như vậy. Sau khi ra Hà Nội, tận mắt nhìn thấy đời
sống dân chúng, chứng kiến cảnh làm việc, nhìn thấy sinh hoạt của người
dân từ nông thôn đến thành thị, thấy trật tự xã hội bị đổ nhào, đạo đức
văn hóa không ai cần phải giữ gìn, những cảnh trắng trợn không ai cảm
thấy xấu hổ. Tàu hỏa và xe buýt là nơi bọn đầu trộm đuôi cướp hoành hành
mà cơ quan công lực không làm gì được. Dân chúng bị hà hiếp không biết
kêu than nơi đâu. Phải công nhận người dân Miền Bắc gặp cảnh tai trời
ách nước cay nghiệt, mà họ không hề phản kháng, chỉ cắn răng chịu đựng.
Mà phản ứng làm gì được khi bao tử đói meo, chỉ lo mỗi cái ăn chưa xong,
hơi đâu ôm đồm chuyện khác.
Xe chạy đến huyện Kỳ Anh (tôi không nhớ thuộc tỉnh nào vì lâu quá,
hình như là Hà Tĩnh). Chúng tôi vào một quán cơm bên đường, người con
gái bán cơm rất đẹp, nói giọng Hà Nội. Tôi nghĩ giữa nơi đồng không mông
quạnh, lại có người nho nhã, ăn nói lễ phép và đồ ăn rất ngon. Trong
lúc đó ngay tại Hà Nội chưa có quán ăn nào vừa ý. Tôi xin nói thêm chỗ
nầy, Hà Nội lúc đó tìm một quán café cũng rất khó. Đi ăn phở phải xếp
hàng và trả tiền trước. Đặc biệt, khi chúng tôi xếp hàng thì người giữ
trật tự mời vào ngồi bàn trước, ăn xong mới trả tiền (ưu tiên cho dân
Miền Nam). Tôi hỏi người thu tiền tại sao chúng tôi được đặc ân như vậy.
Thì họ trả lời là phải thu tiền trước để biết khách muốn ăn bát phở giá
bao nhiêu, thì làm đúng với giá tiền, nếu không họ chỉ trả ít hơn thì
mình không biết phải làm sao, hoặc ăn xong không trả tiền rồi bỏ chạy.
Còn các anh ở Miền Nam đã quen với cái lối trả tiền sau, các anh nhắm
mình có đủ tiền mới vào quán và nếu có bỏ chạy thì các anh không biết
đường nào mà chạy thoát được. Vì vậy chúng em phải tiếp các anh như ở
Sài Gòn vậy. Chính quyền cách mạng xem tụi tôi như một thứ ghẻ lở, nhưng
bà con Miền Bắc thì lại xem tụi tôi rất thân tình. Sau khi ăn xong, tôi
hỏi về gia đình. Giọng nói của cô gái khác với những người chung quanh.
Cô cho biết cha mẹ cô là dân Hà Nội chính gốc, sau 54 bị tịch thu nhà
cửa và đi kinh tế mới nên phải trôi giạt vào đây. Cô hiện thời là sinh
viên, cuối tuần phải về để giúp đỡ cha mẹ bán cơm. Nhìn hình ảnh của cô,
tôi liên tưởng đến những bà con ở Sài Gòn đi kinh tế mới. Chắc chắn họ
không được may mắn như gia đình cô hiện thời, cái gốc Sài Gòn của họ rồi
cũng sẽ mất. Nhà to cửa lớn của họ đã được các “quan cách mạng tiếp
thu”, đổi chủ một cách hà khắc.
Chưa có một cuộc sống nào người dân phải chịu đựng oan ức như trong
thời “giải phóng”. Tôi nhìn ra cánh đồng xa xa, thấy những chiếc áo tơi
(chầm bằng lá buông mà vào khoảng thập niên 60 không còn thấy xuất hiện
tại Miền Nam), nhấp nhô trên đồng ruộng. Tôi hỏi cô gái trời nắng như
vậy mà tại sao phải mặc áo tơi. Cô ta cho biết, làm gì có áo mặc để làm
ruộng, họ mặc áo tơi để thay cho áo vải. Nhìn qua cánh đồng khác tôi
thấy người kéo cày thay cho trâu bò. Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy
cái cảnh thân hình thiếu ăn ốm o, choàng sợi dây trên vai kéo cái cày,
có một đứa bé đứng phía trên, thật tội nghiệp. Những năm của Miền Bắc xã
hội chủ nghĩa đã gặt hái những gì tốt hơn cho người dân? Cái cảnh trông
thấy trước mắt mà tôi có dịp ra Miền Bắc, cho tôi một bài học là phải
bằng mọi cách tìm đường ra nước ngoài, nếu không thì quá trễ, và viễn
ảnh cho thấy cuộc đời sẽ khốn nạn, thê thảm, bần cùng như bà con ruột
thịt Miền Bắc đang gánh chịu.
Một chuyện buồn cười. Xe của chúng tôi tới Bến Thủy, chờ lên phà để
về lại trong Nam. Đoàn xe nối đuôi nhau dài cả cây số. Tôi nghĩ trong
bụng ở đây chờ ít nhất phải hai ngày trời mới tới phiên mình, vì lúc ấy
chiếc “phà” chỉ chở được bốn chiếc xe vừa qua lại mất cả tiếng đồng hồ.
Nói là “phà” cho nó oai vậy, chứ quả thật là mấy cái phao cột dính lại
với nhau, một chiếc tàu nhỏ như ca-nô kéo đi. Tôi nghe các tài xế chạy
trên đường xuyên Việt kể lại rằng trong mùa nước lũ, phà bị đứt dây trôi
mất là chuyện thường. Tôi hỏi thế thì xe và người trên phà phải làm
sao? May mắn thì được vớt, còn không thì chết thôi. Chuyện quan trọng
như vậy mà người kể chuyện xem như thường và những cơ quan có trách
nhiệm điều hành về phà qua lại trên sông, tỉnh bơ xem đó không quan
trọng, không phải trách nhiệm của mình. Chiếc phà bao năm vẫn không thay
đổi. Cho nên mấy chiếc phà bắt qua bắc Cần Thơ hay bắc Vàm Cống thấy
rất an toàn. Đang ngồi trên xe tán chuyện với nhau, thì người phu cầm cờ
đỏ chạy đến xe chúng tôi hỏi có cần phải qua phà nhanh không? Người tài
xế hỏi ông giá bao nhiêu. Ông trả lời muốn đi ngay thì cho nhiều một
chút, muốn qua phà chậm thì ít hơn. Người phu cầm cờ đỏ đưa hai ngón tay
(có ý là hai trăm đồng) chạy ngay. Hai trăm đồng lương công nhân thuở
đó là năm mươi đồng một tháng. Ông ta cầm cờ đỏ giơ cao chạy trước,
miệng la lớn: “Anh em Miền Nam giúp đỡ anh em Miền Bắc”. Họ xem cái
chuyện đút lót nầy là bình thường, là công khai, cho những chiếc xe khác
noi theo. Chiếc xe của tụi tôi ưu tiên xuống trước. Đứng trên phà qua
sông, thật tình tôi ngao ngán cho một xã hội mà tôi đã chứng kiến trên
Miền Bắc. Rồi đây Miền Nam của chúng tôi sẽ lăn trên vết xe của đồng bào
ngoài kia đã trải qua. Bấy giờ chúng tôi đã thấy ngột ngạt khó thở,
người ta đã bắt đầu áp dụng đường lối cứng rắn để uốn nắn dân Miền Nam
rập khuôn Miền Bắc.
Xe chạy đến Quảng Bình, thành phố xem như bình địa vì bị bom của Mỹ
rải nát, mười năm sau vẫn còn nguyên si, không sửa chữa. Thành phố lợp
tranh trên những nền nhà cũ. Nhà thờ chính Quảng Bình chỉ còn trơ lại
gác chuông. Dấu tích chiến tranh vẫn chưa xóa, nhìn thành phố chúng ta
đủ biết nơi đây đã nhận biết bao nhiêu bom đạn. Chúng tôi vào uống nước
tại một căn nhà tranh trên quốc lộ, chủ quán là một anh thương binh trạc
tuổi tôi. Lúc đầu mới vào anh nói chuyện với chúng tôi sặc mùi cộng
sản. Chẳng hạn như về những năm tháng chiến tranh mà Quảng Bình nhận
lãnh hậu quả nặng nề nhất. Anh nói rất tự hào: “Quảng Bình quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh. Người dân Quảng Bình kiên cường đứng đầu cả nước
chống giặc xâm lăng Mỹ”. Tụi tôi chỉ lắng nghe anh thao thao bất tuyệt
về chiến tranh, về chính sách, về con người sống thế nào cho phù hợp chế
độ. Luận điệu nầy tôi đã từng nghe những người thắng trận lớn lối nói
ra rả vào tai tụi tôi. Anh hỏi tôi trước khi hòa bình tôi làm gì ở Miền
Nam. Tôi không trả lời ngay câu hỏi của anh, tôi vén ống quần cho anh
thấy cẳng chân giả làm bằng plastic. Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn: “Tôi là
người lính của Miền Nam”. Sau khi nhìn thấy sự mất mát thân thể của tôi,
sau khi nghe tôi xác định một cách chắc nịch về con người thật của tôi,
con người mà đứng trên chiến tuyến là đối nghịch với anh. Tôi nói không
có một chút thù hận, không tranh cãi với anh, tôi chấp nhận danh phận
không may mắn của tôi. Thái độ nầy tôi làm cho anh bất ngờ lúng túng.
Tôi thấy anh ngồi suy tư, nhìn tôi có chút ngậm ngùi. Anh thấy những gì
anh nói với tôi đều là những câu tuyên truyền không cần thiết, mười năm
“giải phóng” tôi đã hiểu rõ chân tướng của chế độ, có đánh bóng nó cách
mấy cũng không thể che đậy cách trả thù hèn hạ trên đầu anh em chúng
tôi. Tôi trả tiền nước rồi ra xe, anh chạy theo bắt tay tôi thật chặt,
anh nói là anh cảm thấy mắc cỡ ăn nói quá nhiều hàm ý tuyên truyền, khi
nhìn thân thể tôi, anh biết không dễ gì lay chuyển được tôi. Dù là người
bại trận, đang sống dưới chế độ thù nghịch, tôi vẫn không tránh né về
thân phận của
mình.
Từ Quảng Bình về Quảng Trị con đường gập ghềnh, lởm chởm. Xe qua cầu
Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử ngăn chia Nam Bắc. Chiếc cầu nhỏ nhắn, dễ
thương, nó đứng giữa ranh giới chứng kiến biết bao nhiêu tai ương đổ
xuống trên đầu nhân dân hai miền Nam-Bắc. Nó ngăn cách không những chế
độ bên nầy, bên kia, mà nó còn ngăn cách cả lòng người, xé tan tình tự
của dân tộc. Bao nhiêu năm hòa bình mà ấn tượng, đố kỵ còn nặng nề quá
vẫn chưa biết làm sao nối lại được. Chiến tranh chỉ trong vòng 20 năm,
mà đến 35 năm sau sống trong hòa bình vẫn chưa có cách nào chung sống
trong tình anh em ruột thịt. Tuy không còn cầm súng giết hại nhau, không
còn ranh giới phân chia chiến tuyến, thế nhưng bức tường chắn giữa lòng
người (nói theo kiểu Tưởng Năng Tiến) vẫn còn kiên cố ngăn cách đôi
bên, không ai chịu phá bỏ và quên đi cái thời xa xưa nhục nhã của dân
tộc.
Chút hồi ức nầy không dụng ý khơi dậy đống tro tàn, nhưng để nói lên
cho chúng ta biết “có một thời như thế”, một thời mà không ai muốn nhớ
lại, và rồi, cũng không thể nào quên được !!!
Phan Xuân Sinh
No comments:
Post a Comment