Hai
mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù và nửa
triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường.
Tuy nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi
người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người
Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của
một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó đã ghi chép
không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra
từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại
Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người
Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền
vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg
chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn
cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là
Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi
là người đã ở lại pháp trường, để lo
lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi
thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà
Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là
người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số
phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000
người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công
lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh
ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang
và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính
VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ
cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng
giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp bóc giết
hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ
vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn
thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai
có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã
Hội.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao
thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly
loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu
hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống
đời cay cực, mới thương xót cho “ cảnh ba đồng, ba cộc “ của kiếp lính Miền
Nam.
Nhức nhối và
mai mĩa nhất, đó là hiện tượng thuyền nhân tị nạn sau ngày 30-4-1975. Ngoài
tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “
những tên tuổi lớn “ một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà
văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã
hội.. cũng lợi dụng “ danh nghĩa người lính “ để được tị nạn chính trị. Ứa gan
hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển,
sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán
bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “ nếu
theo Ngụy “, sẽ không được về VN để thăm nhà.
Trong nổi chịu
đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một
lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ
cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến.
Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh
đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm
trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với
những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn báo chí quốc tế
bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành
một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các
thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi
gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng
cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được
mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu chuyện
tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn,vì không thể chịu
nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đở đạn cho đồng
bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng
Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngả ba Vườn Lài (góc
đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie
Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được
giải thưởng quốc tế.
Sau ngày
30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới
truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC
bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi
Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền
nhưng bị thất bại .
Trước và sau
ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddic
Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình,
trong đó có đoạn “ Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi
“. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ
Times, đồng thời gới tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh
thiếp viết tay “ General, I am so,so,so.. sorry “.Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ
làm nhức óc những tên “ sống nhờ người tị nan “ nhưng lúc nào cũng viết lách,
làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất
là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1
BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BDQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối
cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như
toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc
đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc hành
quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “ Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực
30, Hạ Lào “ là viết sự thật. Ngoài ra
tất cả bọn phóng viên Mỹ&Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy
bay tải thương xác lính và thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch
rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu
Thân (1968).
Riêng làng
báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự
thật, nên chỉ đành “ chôm chĩa tin từ báo Mỹ “ rồi “ Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng
không có đại bàng “ rằng “ VC đâu có
quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho
tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm
lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy . Có đọc những tin tức
của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt
cuộc chiến, để bảo vệ cho “ đám này “, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẽ đã
nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng người
lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ
sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho
nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự
phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc
chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ
phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu
phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận
tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm
qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng,
đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc
đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh
niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn,
kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên
đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn
khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để
dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận
mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng
lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn
nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng
còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho
đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói
nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng
đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng
của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật
chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã
thân bảo vệ mạng sống thừa thải ký sinh của mình. Hai nhân vật điển hình nhất
trong bảng phong thần của thời đại này, không ai có thể vượt qua được. Đó là
nhà tu Bất Hạnh và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Trong Tạp
Chí Làng Văn số 235 xuất bản tháng 3-2003, tác giả Lâm Lễ Trinh có viết bài “
MTGPMN nói gì về Dương Văn Minh, Lực Lượng Thứ Ba và Chính khách Lưu Vong Miền
Nam ? “ . Bài viết này tác giả trên đã dựa vào tài liệu của VC, từ ba quyển ký
ức của Võ Nguyên Giáp và bộ sách “ Chung một bóng cờ “ của tập đoàn MTGPMN gồm
Nguyễn Hửu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, Nguyễn Thị Bình..
Nhờ bài viết
trên ta mới biết , trong lúc đồng bào và chính phủ NVN đau khổ hấp hối vì bị
Thế giới và Mỹ phản bội bán đứng cho CSQT, thì tại hậu phương, các chính khách
con buôn của VNCH, đã múa rối bĩ ổi và chạy theo bợ đít VC để mong kiếm chút bã
lợi danh sau cuộc đổi đời. Phan Nhẫn, một cán bộ VC hoạt động tại Paris viết “
Thích Thiện Châu và Mạn Ðà La, lãnh đạo Phật giáo tại Pháp là phe ta, có liên
lạc mật thiết với Phật giáo trong nước. Su Thiện Châu đã về chầu Hồ và Mác năm
1998. Ở đây còn có cố đạo cấp tiến Nguyễn Ðình Thi, lập cái tổ chức lấy tên là
“ Communauté Vietnamienne “ thường tụ họp với VC cũng như Trương Bá Cẩn, Lý
Chánh Trung trong nước. Năm 1969 Hồ về chầu tổ Mac, các cố Nguyễn Ðinh Thi
(Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tĩnh (Canada), đã tổ chức phát
tang cáo Hồ thảm thiết và trang trọng.
Cũng lời
Phan Nhẫn kể “ Ngoài ra Ta còn đuợc sự hợp tác của các sĩ quan Sài Gòn, nguyên
xuất thân từ lính khố xanh, khố đỏ Pháp, đang sống lưu vong tại Ba Lê như Ðổ
Khắc Mai, Nguyễn Hữu Khương, Vương Văn Ðông, Nguyễn Văn Châu, Trần Ðình Thi..
Tất cả bọn lính tây trên đều nói là rất hối hận vì đã lở làm quan tại VNCH, nay
hối ngộ nên xin đảng cho gia nhập, để chuộc lại những lỗi lầm “.Miền Nam đầy
rãy sâu bọ như vậy, làm sao chúng ta khống mất nước ? Hung hăng nhât trong bon
nay là Trần Ðính Lan do thâm thù VNCH đã trục xuất hắn về Pháp , sau khi lộ tẩy
vụ muốn NVN trung lập, để thực dân trở lại. Bởi vậy từ năm 1966, Lan lập tại
Paris cái gọi là “ Forces Libres du VN “, tận trung với “ bác đảng “ tìm đủ mọi cách quậy phá chính phủ QG. Khôi
hài nhất là câu chuyện mà Nhẫn kể với giọng xõ lá “ thậm chí lúc bi bạo bệnh,
Lan xin với đảng, phủ cho mình Lá Cờ Máu “, để nở mặt khi xuống âm ty trình
diện Hồ. Ngay lúc Ban Mê Thuột bị Bắc Việt cưởng chiếm vào tháng 3-1975, Lan đã
gọi điện thoại chúc mừng và lập đoàn đại biểu mang hoa tới mừng đảng tại Paris,
khi nghe tin giặc Hồ đã hoàn toàn chiếm được Miền Nam trưa ngày 30-4-1975, sau
lệnh bắt QLVNCH buông súng rã ngũ của TT hai ngày “ Dương Văn Minh “.
Cũng trong
bộ sách này, Phan Nhẫn đâu có tha các chính khứa xôi thịt của VNCH, đã chạy
sang Pháp như Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh, Nguyễn Hữu Châu.. luôn to miệng
nhận là “ Lực lượng thứ ba “, thành phần của nhóm đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Ngô
Công Ðức, Lý Quy Chung, Lý Chánh Trung.. Cuối tháng 12-1972, Mỹ dội bom Hà Nội và
Bắc Việt, bọn chính khứa trên la lối phản đối kịch liệt. Rồi khi Hiệp định
ngưng bắn được ký kết , cuối năm 1973 bọn phản chủ tại Paris lại lập “ Uỷ ban
nhân dân đòi thi hành HD Paris 1973 “ cùng lúc với “ Ủy ban đòi hòa bình và dân
chủ “. Nhưng đau đớn nhất, là sự khinh bỉ của chính VC đối với bọn khoa bảng
tuy có bằng cấp và học vị cao như núi, mà “ giá trị lại không bằng cục phân “ ,
qua lời chủi yêu của Phan Nhẩn “ Bọn chúng biết là khi Mỹ rút ,VNCH sẽ sụp đổ, nên
đòi trung lập, hòa giải, hòa hợp với đảng ta, để có cơ hội trở về tham chính .
Nhưng điều mai mĩa với chúng, là đảng ta có bao giờ muốn thế “.
Ðể kết thúc
bộ sách coi như vĩ đại nhất của đảng ta, bằng những lời thố lộ tâm huyết của ba
đại chính khứa NVN gồm Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Xuân Oánh, Dương Văn Minh . Nhẫn
ghi “ Nguyễn Hữu Có nói, đảng phải thông báo ra nước ngoài, để kẻ thù cũ cắn
rứt lương tâm mà quay về với ‘bác’ “. Còn Oánh thì cảm tháy thoải mái, sau khi
thoát được “sự kềm kẹp “ của Mỹ Nguỵ. Riêng TT Minh công bố hãnh diện được làm
công dân xã nghĩa VN “. Ðó là thực chất của những khuôn mặt và tổ chức chính
trị ‘ lực lượng thứ ba đối lập ‘ , đã nối giáo cho CSQT, tiêu diệt chính quyền
Quốc Gia tại NamVN, rồi cuối cùng chính những người phản bội, cũng nhận chịu
hậu quả thảm khốc về vật chất và tinh thần như mọi người, thêm vào đó là bia đá
nghìn thu và bia miệng loan truyền miên viễn tiếng xấu xa, không làm sao rửa
sạch, cho dù ngày nay vẫn còn ít người tuyên bố “ Nhờ Minh ra lệnh đầu hàng
sớm, họ mới sống sót “ . Hởi ôi sống như cuộc sống của cả nước VN hiện nay, kể
cả người Việt lưu vong, thì được sống thêm cũng đâu có ý nghĩa gì .
Ngày nay ai
cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp,
khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi
thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền
Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn
khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó
chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất
nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa
bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cọng
sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng
trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn
trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để
viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng
chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh
mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng,
VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu
xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng
tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quảng đời lưu vong
nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh
chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do
không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong
địa ngục trần gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.
Ngoại trừ
một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân,
Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất
cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “ Trại
Cải Tạo “ để đánh lừa thế giới, về sự dã
man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định.
Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến
17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để
lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nổi cực khổ, đói
lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm
gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần
ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nổi hận hờn
tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những
gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ
chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như
chực chờ sẳn bên cạnh :
Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gở mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nữa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn.
(thơ mường giang).
Lính sống bị
trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết , CSQT cũng không tha, thì
nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tư Sĩ của VNCH, lại càng bị đoạ đày
thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên
trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai
mờ: Ðó là địa ngục VN sau 36 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của
QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn
toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó
gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh
Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự.. chứ đâu phải chỉ có những tướng
tá “ chó nhảy bàn độc “ từ thời Pháp thuộc, như Minh, Kỳ, Có, Mậu, Ðôn, Xuân,
Kim, Khiêm.. bất tài vô tướng, khiến cho nhiều người vin vào các hình cây đó mà
xuyên tạc, làm cho người Lính Miền Nam bị xấu hổ lây, không biết đâu mà “ dấu
mặt “ khi chạm trán với sự thật.
Ngày xưa
người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang,
giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
..xin vì
chàng, xếp bào cỡi giáp
xin vì chàng
giũ lớp phong sương
vì chàng tay
chuốc chén vàng
vì chàng
điểm phấn đeo hương não nùng.. ’ ’
( Chinh Phụ
Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay
người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi
năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại
bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa
cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Ngày nay, đã có không biết
bao nhiêu người ,đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết
bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết
trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim
người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN ?
Xưa NGƯỜI
LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính
già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang
tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống
thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
..tội
nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường
dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân
hùng liệt nay về đất
hồn vẫn
quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều
đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê
hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát
rừng nơi chiến địa
mộng hoàng
hoa, khép giữa hư vô
(thơ mường
giang)
Xin nghiêng
mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin
chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và
đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương
phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment