Vài giờ, sau khi chiếc trực thăng cuối
cùng chở toán quân của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Jim Kean, rời nóc bằng
của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Miền Nam VN, để bay ra biển Ðông, lên hạm về nước
trong danh dự. Cũng là lúc bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn bỏ ngỏ, qua lệnh đầu
hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Cái bi hài của vở kịch “ nước mắt trước cơn
mưa “ là lúc mà chính phủ hai ngày của VNCH đang hồ hởi hòa hợp hòa giải, để
chờ chim bồ câu trắng hòa bình hiện ra, thì cũng là giờ G ngày N của Hà Nội đã
điểm.
Ðây cũng là thời khắc mà tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, Q.Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, nhân danh TT Minh, ra lệnh cho các Ðơn Vị
Miền Nam đang phòng thủ quanh Sài Gòn phải cố giữ vững vị trí chiến đấu, chờ
sáng để nhận được phép lạ từ trên trời rớt xuống. Lúc đó, đồng hồ chỉ đúng 12
giờ khuya đêm 29 rạng sáng ngày 30-4-1975. Ðây là giờ qui định của Bộ Tư Lệnh
Miền do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần văn Trà chỉ huy.. ban lệnh
cho B3 hợp đồng, với tất cả các lộ quân từ năm hướng, đồng loạt tấn công vào
nội thành thủ đô. Ðó cũng là thời gian lộ mặt của các đội Biệt Ðộng, Ðặc công..
từ các nơi nằm vùng, nổi dậy bắt liên lạc với các cánh quân bên ngoài. Ðó là
giờ qui định cho tất cả cán bộ đảng, cán bộ chính trị nằm trong hàng ngũ VNCH,
lột mặt nạ cầm đầu sư đoàn 304 quàng khăn đỏ, đang có mặt khắp thôn làng hẻm
phố, sẵn sàng tiếp thu chiến lợi phẩm và còng bắt tù binh, nếu cần hạ sát tại
chổ..
Cũng từ đó lịch sử dân tộc được lật
sang trang, chấm dứt một cuộc chiến dơ bẩn nhất tại VN, do cọng sản dàn dựng từ
đầu đến cuối, với mục đích tạo cảnh chiến tranh, để đổi đời, nắm quyền, do một
thiểu số cùng đinh cực ác trong xã hội xướng xuất. Cho nên thành phố Sài Gòn,
một địa danh được các vị chúa Nguyễn và người dân Ðại Việt tạo dựng bằng mồ hôi
máu mắt, từ ba trăm năm trước, cũng bị mất tên và được gán vào danh xưng Hồ Chí
Minh (đại phản tặc của dân tộc, mà đời đời kiếp kiếp, miên viễn bị bia miệng
nguyễn rũa.), như những thành phố tại Nga Sô Viết, trong thời kỳ cách mạng
tháng mười năm 1917. Cũng nhờ cách mạng, giải phóng nên từ đó tới nay, đồng bào
cả nước, trước sau rủ nhau xuống hố xã hội chủ nghĩa, để tìm thiên đàng
Mác-Lê-Mao-Hồ, trong vũng bùn duy vật biện chứng pháp, mà gần hết nhân loại đã
ném vào cát bụi, từ những năm đầu thập niên, cuối thế kỷ XX khi Liên Xô, Ðông
Ðức, Ðông Âu tan hàng, trước chủ nghĩa tự do, dân chủ, mà không cần phải đốt
rụi Trường Sơn, giết hại hằng triệu triệu người Việt của hai miền.
Một trăm hai mươi lăm nhà báo da
trắng, da màu đủ loại nhưng tuyệt đối đều sùng bái VC như thần thánh trong suốt
cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), sau ngày bị chính quyền mới trục
xuất , đều viết : ‘Quang cảnh Sài Gòn
ngày hôm đó cũng vẫn như mọi ngày. Nếu có khác biệt, đó là sự hiện diện của
những bộ đội miền bắc, với quân phục may bằng vải kaki nội hóa màu xanh lá cây,
đầu đội cối có gắn sao, chân mang dép râu làm bằng vỏ xe phế thải. Tất cả ngơ
ngơ ngáo ngáo như người cõi trên, trước cái cảnh trang đài sang giàu lầu cao
phố đẹp của Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Ðông, không giống với luận điệu tuyên truyền
của đảng .. là dân nguỵ bị Mỹ-Thiệu kềm kệp, nên nghèo mạt rệp, rách đói đến
nỗi, ngay cả trí thức nhà báo khao bảng, cũng phải đi ăn mày.. ’ ’ ’ Tóm
lại Sài Gòn ngày đó như mọi ngày, chẳng thấy ai tiếp đón ai, cũng không có cảnh
biểu tình đồng khởi hoan hô mà đảng hằng mong đợi. Người Sài Gòn đã dửng dưng
trước thời cuộc, như chưa hề biết là đã đổi đời.
Củng hôm đó, trên đại lộ Thống Nhất
dẫn vào Trung tâm quyền lực nhất của Nam VN. Ðó là Dinh Ðộc Lập, mà mới vài giờ
trước đây, chính khứa quan quyền đủ loại ra vào tấp nập để xin quan mua chức.
Nay quang cảnh vắng hoe, kể cả người lính gác cổng cũng cao bay xa chạy, đang
được bộ đội Bắc Việt, tùng thiết trên mấy chiếc T54 của Liên Xô viện trợ, tới
tiếp thu một căn cứ quân sự bỏ ngỏ, không phòng thủ.
Một vài chục tên Việt gian thời cơ, trở cờ,
cánh tay mang băng đỏ, tay khác cầm cờ máu, lá cờ mà mấy chục năm nay cứ khoe
là của nước Việt, mặt thật là sao chép y chang cờ máu của đảng Tàu Cộng, ngược
xuôi xuôi ngược hò hét lập công. Nhưng mùa xuân có trăm hoa đua nở, có vạn vật
hài hoà.. cho nên với một lá cờ máu tạo dựng bằng núi xuơng sông máu đồng bào,
bán nước bán đất, tiêu diệt tín ngưỡng cùng văn hiến dân tộc, đang do một đám
sâu bọ đội lớp người trí thức dân chủ, cổ võ bung xung, thì làm sao dựng nổi
một mùa xuạn ? Văn Tiến Dũng, Bùi Tín quen tuyên truyền nên đã loạn ngôn cuồng
bợ, viết sai các dữ kiện lịch sử trong ngày ‘ Sài Gòn bỏ ngỏ tháng 4-1975, từ lúc Dương Văn Minh phát tiếng trong
đài, ra lệnh QLVNCH, phải buông súng đầu hàng quân Bắc Việt ‘, qua các tác phẩm
mang tên ‘ Mùa Xuân Ðại Thắng, Ánh Sáng của lịch sử .. ’ ’ ’
Hôm đó phường phố Sài Gòn thật sự vắng
hoe, cũng không có cảnh xuống đường với biển người rừng cờ như Hà Nội và đám
Việt Gian Miền Nam mong đợi, để nhờ bọn ký giả phương tây thân cộng lúc đó,
quay phim chụp ảnh, tuyên truyền với thế giới bên ngoài rằng là cách mạng giải
phóng đã thành công.. Chỉ có một vài kẻ đa sự, tình cờ hay bị bắt buộc, bặm môi
dừng lại bên đường, để trố mắt nhìn bộ đội miền bắc và tăng pháo do Nga-Tàu
viện trợ, mà mới hôm qua đọc trên các báo chí đối lập Sài Gòn, nói là quân Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, do anh Tho, chị Bình, chị Ðịnh.. chỉ huy để chống lại
chính phủ VNCH tham nhũng, gian ác, đàn áp tôn giáo, ngăn cấm tự do..
Chỉ có đám dân chiến nạn từ miền Trung, di tản
theo lính vào Sài Gòn, giờ bơ vơ đói rách, bồng bế nhau hồi cư theo lệnh của
chủ mới. Chỉ có những quân, công, cán , cảnh Miền Nam tan hàng rã ngủ, biết
thân phận mình, rủ nhau tới các địa điểm trình diện. Sau rốt là đại đa số dân
nghèo cưc, không có phương tiện hay chẳng bao giờ mơ ước xuất ngoại, nên đành ở
lại với cảnh tranh tối tranh sáng, kéo tới các kho đụn, nhà giàu, sở Mỹ cùng
dinh thự đồ sộ của các quan tướng.. đã bỏ chạy, để hôi của kiếm ăn. Sài Gòn mặt
thật của những phút giờ đổi đời là thế đấy. Hiện có nhiều nhân chứng hôm đó,
chắc là còn sống, tuy tuổi đã cao nhưng không mất trí nhớ, đang ở khắp các nẻo
đường hải ngoại, thì ai dám bẻ cong ngòi bút, lếu láo vẽ rắn thêm chân, đem
thúng úp voi, dấu đầu lòi đuôi cho được ?
Người dân Sài Gòn cố gắng mở to đôi
mắt hôm đó, để tìm trong hàng ngũ bộ đội tân lập 304 băng đỏ, cũng dép râu, nón
tai bèo và khăn rằn xanh quàng cổ, hình dáng thân thương của các thầy, quý cha,
anh chị em văn nghệ sỹ.. từng hò hét khản cổ, kêu gọi phản chiến, hòa hợp hòa
giải năm xưa. Nhưng hỡi ơi, trong đó tìm hoài đâu thấy một ai. Các vị chỉ muốn
đấu võ mồm, đâm sau lưng người lính, phá thối chính quyền đương thời. Ðến lúc
nhà tan nước mất, giặc Bắc không hòa hợp mà chỉ xâm lăng, cướp của giết đồng
bào.. thì các vị cũng đã nhanh chân ôm Mỹ, để kịp chạy ra hải ngoại, tiếp tục
đối lập trọn đời, để lần nữa phá thối cuộc sống tạm dung chốn quê người, của
những thân phận VN, cũng vì họ mà ngày nay phải sống đầu đường xó chợ, khác nào
những tên nô lệ Pháp, Mỹ, trên vãn nẻo đường lưu vong, lấy nước mắt làm canh,
đêm ngày hoài mơ viễn xứ, thương khóc tưởng nhớ quê mình.
"...
buồn đã khắc trên từng con phố nhỏ
đường
đổi tên, nhà cũng vắng người thương
bạn
bè xưa giờ lạc khắp mười phương
trường
lớp cũ, cũng dãi dầu hoang phế
quên
sao được tháng tư đen máu lệ
người
hại người bằng độc lập hòa bình
người
giết người với súng đạn đồng minh
mồ
vô chủ, biển xác người trôi giạt
tháng
tư đen, quê hương mình tan nát
triệu
mẹ già, khóc biệt đám con thơ
tuổi
hoa niên, căng nhựa sống đợi chờ
đã
héo úa vì thân trai thời loạn
tháng
tư đen, triệu người sôi lửa hận
vết
thương lòng thêm rách nát tả tơi
ta
đứng khóc nhìn biển rộng mù khơi
tìm
nhân ảnh trên tình người sắp cạn.."
Và ngay khi Sài Gòn vừa lọt vào tay
giặc, tháng 5-1975 VC lập Ủy ban quân quản thủ đô và Ủy ban cách mạng tại các
tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước,
công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi
một thành phần quản ly mơi, gồm toàn cán bộ cọng sản miền Bắc hay tập kết.
Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp thì giữ vai trò ‘ cố vấn kỹ thuật’. Ðồng
thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn. nhưng ác liệt
nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ : Ðánh Tư Sản Mại Bản .
Vào tháng 9-1975, VC ra lệnh bắt giam
hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỷ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách
sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo.. tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi
cửa, sau khi toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc vàng ngọc
.. bị đảng trấn lột hết. Ðồng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền. Cũng từ đó đồng bạc
VNCH không còn giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đình
được 200 đồng ( tương đương 100.000 tiền VNCH). Theo VC, miền Nam lúc đó có hai
loại tư bản là Tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia,
chủ tiệm ăn. được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trử để trục lợi,
nên phải có tội .Còn giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ.. là thành phần
sản xuất có ích cho xã hội chủ nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng
đường lối của chế độ đề ra.
Từ tháng 3 -5/1978, để tiêu diệt và
xóa sổ những gì còn lại của nền kinh tế VNCH trước năm 1975, VC lại đánh tư bản
miền Nam đợt 2 vào ngày 23-3-1978, vô cùng qui mô và ác liệt, chẳng những tại
thủ đô Sài Gòn, mà ở khắp các thành thị từ vỉ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch
Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, vì tất cả tài sản của người miền Nam,
từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay
lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đò, xe vận tải và các loại xe nhỏ.. đều bị đảng
cướp giựt, tịch biên một cách công khai.
Tàn nhẩn hơn, đảng còn ra lệnh cho những nạn
nhân tay trắng này, trong vòng một tháng phải ra khỏi Sài Gòn, để đi kinh tế
mới. Riêng tại Sài Gòn, tính đến ngày 3-5-1978 đã có hơn 30.000 người, bị đuổi
khỏi mái ấm gia đình và nơi chôn nhao cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các
vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh
Tây Ninh, Bình Long, Phước Long,An Xuyên, An Giang, Ðồng Tháp Mười, Châu Ðốc
Lâm Ðồng.. hay gần hơn nếu còn chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông
trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi
và Hậu Nghĩa.
Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào
tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng
chủ nhân xe đò, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải.. được xem là thành phần tư
sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do nhà nước quản
lý, cán bộ đảng làm giám đốc, còn người chủ thật sự, thì lên chức cố vấn kỷ
thuật. Tuy nhiên giới này còn được chút an ủi, là được cho phép ở lai thủ đô,
có hộ khẩu tem phiếu và hưởng qui chế công nhân viên nhà nước, từ 60-85 đồng
bạc Hồ. Có một ít được lãnh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng
lở hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ,
được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đã có sẳn.
Ngày 25-4-1978, thủ tướng Phạm Văn
Ðồng đã ký một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ
cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3-5-1978. Cũng Phạm Văn Ðồng ký thêm một
nghị định ngày 31-3-1978 , bãi bỏ tư thương chuyễn vận hàng hóa từ nông thôn ra
thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích
làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của VNCH
thành các quốc gia riêng biệt.
Tất cả theo đúng đề cương định hướng
của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời bình và là một Sô
Viết Nghệ Tĩnh , một đơn vị chiến đấu trong thời loạn. Nhưng trên hết là phải
cô lập thủ đô Sài Gòn với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa võng kiểm soát
trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài Gòn bị mất tên, VC đã
đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả
miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường để thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định
quốc doanh đem từ miền bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các
tỉnh thị ngoài Sài Gòn, bị ứ đọng vì không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải
bán tháo đổ, rẽ mạt cho NHÀ NƯỚC. Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài Gòn,
bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên,
với sự độc quyền
Nhưng võ quít dầy có móng tay nhọn, kẻ
cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lý. VC độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng
lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng
và cán bộ, là đã đồng tình và sợ chúng. Vì vậy chúng lại càng tham lam, hấp
tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là xã hội chủ nghĩa, cùng với
chính sách tập thể hóa cưởng bách đất đại, để khống chế và nắm độc quyền kinh
tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.
Tức nước vỡ bờ, VC bị dội ngược vào tường, vì
gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào VNCH, chẳng những tại Sài Gòn-Chợ
Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng
theo gia rẽ mat, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh xập tiêm vì khan
hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt. Một sớ lớn nông dân tại các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long, nại lý do sưu cao thế nặng, nên tự ý bỏ ruộng đất
hoang không thèm canh tác. Do trên nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi
với tình trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng
chui từ ngoài vẫn đổ về Sài Gòn, đủ cả gạo thịt cá rau quả, vì đã móc ngoặt,
hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương..
Tình trạng dân đói lại càng bi thảm
hơn, trước thảm cảnh của những gia đình bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở
các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên
lại liều chết quay về Sài Gòn, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần
lớn là thành phần quân, công, cán, cảnh và cả thương phế binh VNCH. Vì CS Hà
Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sai Gòn nhờ may mắn,
đã vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần
thiết cho sự phát triển nền công kỷ nghệ VN. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở
công kỷ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thưc phẩm tại Sài Gòn và vùng phụ cận,
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì nguyên liệu đã kiệt quệ. Ðây cũng
là thời gian VC bị thế giơi bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật , các nước trong
Hiệp Hội Ðông Nam A.. cho tới Ấn Ðộ, Liên Âu.. tẩy chay và quay mặt, trước
những hành động thực dân trong nước, cũng như đã công khai làm nô lệ cho Liên
Bang Sô Viết tại Châu Á.
Ngày 9-6-1980, Trương Như Tảng bộ
trưởng trong chính phủ GPMN, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo,
tố cáo cọng sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời
gian ngắn cai trị Miền Nam, đã làm cho Sài Gòn sụp đổ toàn diện về kinh tế,
thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đã khiến cho hầu
hết các công ty hợp doanh còn lại khánh tận vì thuế theo luật rừng. Cũng nhờ
đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất bình đẳng
xã hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30-4-1975, vì sự ham muốn hưởng
thụ vất chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có
tiền đút lót, thì việc gì cũng tốt, cũng xong.
Ðể lấy lại nềm tin cứu đảng, ngày
3-2-1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm đệ tam cọng sản quốc tế, tổng bí thư Lê
Duẩn đòi diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính
sách ‘ ba lợi ích’, lại tạo cơ hội thêm cho cán đảng tham ô lộng quyền, móc
ngoặt với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng quốc doanh bán ra thị
trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trổi dậy, đóng vai trung gian các nghiêp vụ
mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Ðài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã
Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận VN, để đổi chác
vàng, mỹ kim hoặc các thổ sản VN như gạo, tôm cá đông lạnh.. Nhờ các dịch vụ
chui béo bở này, mà các cán đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản
đỏ, trong xã nghĩa thiên đường. Cuộc dành ăn , đã khiến hai phe đảng giáo điều
và đảng canh tân, thanh toán công khai đẳm máu tại Sài Gòn, làm Bắc Bộ Phủ phải
xét lại vì đã nóng mặt, trong cảnh trâu cột nhìn trâu ăn, cũng thấy thèm.
Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ
Hà Nội và Sài Gòn, thật sự đã bùng nổ, sau kỳ đại hội đảng lần thứ V
(27-31/3/1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến thủ tướng Phạm Văn
Ðồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982) , có 6 cán bộ trung ương
đảng bị loại khỏi bộ chính trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Ðinh
Ðức Thiện,Nguyễn Thành Thơ và Võ Nguyên Giáp. Riêng Võ Văn Kiệt bị bứng gốc
Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi sơi nước, trong chức vụ phó thủ tướng
kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch nhà nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới
theo bác về chầu tổ Mac-Lê) cũng bị lung lay địa vị.
Phó thủ tướng Ðổ Mười được đảng giao
thi hành chính sách sửa sai tại thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương
nghiệp, trừng trị cán đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào tháng 5-1983.
Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong thành Hồ,
vì lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đưởng
Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào
giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến
cho nhiều cơ sở phải xập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola..,
đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.
Ðộc hiểm hơn, Ðổ Mười còn mở chiến dịch đánh
giới tư thương bán lẽ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố.
Ðối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Ðổ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp
và qui định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quĩ này,
khiên cho ngoại viện của Việt kiều tụt giãm trầm trọng, vì không ai muốn của mồ
hôi nước mắt , lọt vào tay đảng. Trong dịp này Ðổ Mười đã thanh toán được nhiều
ngàn tư bản đỏ, trong đó cộm nhất có giám đốc xí nghiệp liên hiệp Cửu Long,bị
tịch thu trên 20 ký lô vàng ròng. Cùng với nhiền cán đảng cao cấp tham ô trong
các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex,Gidimex..
Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất mãn vì
sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng
lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng TÂN CHÍNH SÁCH (NEP) của Liên Xô đề
ra, ban hành nghị quyết của bộ chính trị trong phiên họp ngày 17-12-1984 để tập
thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số
8-1985,bãi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hang quốc doanh gần bằng giá tại
thị trường.
Cuối cùng là ÐỔI TIỀN MỚI lần thứ ba,
vào ngày 14-9-1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền
trước. Ðây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ròng, đẽ ra chính
sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp
vì bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma
thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su,
trà, cà phê.được trả bằng lương công nhân viên chết đói. Nhưng quan trọng nhất
là xuất người làm vật lao động , để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Xô, Ðông
Ðức, Tiệp Khắc.. mà theo thống kê đã có tới cả trăm ngàn người. Tuy nhiên tất
cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài Gòn vẫn
bám trụ tại chổ, mua hàng chui tại chợ trời chợ đen để sống, mà không cần vào
tem phiếu tq5i cửa hàng quốc doanh. Nền kinh tế chợ trời-chợ đen phát triển lên
tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác
của miền Nam, khồng thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ
và khủng bố.
-
Sài Gòn bây giờ cái gì cũng có :
Như lời Tú Trinh quảng cáo, Sài Gòn
bây giờ, qua danh xưng Thành Hồ cái gì cũng có, sau khi đảng VC lâm vào đường
cùng ngay lúc thành đồng xã nghĩa Liên Xố và Ðông Âu tan rã và sụp đổ, cúp hết
nguồn viện trợ nuôi sống Bắc Bộ Phủ. Ðói và gần chết, nên đảng VC đành mở cửa,
trãi thảm đỏ chẳng những quì rước tư bản đỏ trắng, mà ngay cả kẻ thù không đội
trời chung là Hoa Kỳ và Người Việt ti nạn khắp thế giới, một thời từng bị Hà
Nội phỉ báng, chưỉ bới là những thành phần phản quốc, cặn bã của xã hội,trốn ra
nước ngoài gái thì làm điếm, trai ăn cướp lưu manh., đâu có chừa ai, dù là kỹ
sư, bác sĩ, tướng tá, nhà văn, nhà báo, kể cả sư cha và me Mỹ-Pháp
Nghèo đói tuyệt vọng, đã đẩy mọi tầng
lớp đồng bào vào cuối đường hầm, nên họ chỉ còn biết tin vào những may rũi cuộc
đời, như rũ nhau đi tìm vàng ở Hiếu Liêm ( Phước Long), Tà Pao (Bình Tuy), Ba
Thê (An Giang).. để mong một sự đổi đời. Ðây cũng là cơ hội để cho bọn kinh
doanh thần thánh ma quỉ hốt bạc, qua những màn thông điệp, phán quyết, sấm
truyền. Trong khi đó đâu đâu cũng có những ông bà cô cậu, thần thông quãng đại,
chuyên môn chữa bệnh bằng bùa phép, qua các bậc tu hành lừng danh như Ðại Ðạo
Tiên Cô, Thầy Bùa, Thầy Mo, Thầy Tư Nước Lạnh.. thầy cô nào tiếng tăm cũng lừng
lẫy, chẳng những ở thủ đô mà còn vang dội cả nước. Tất cả đều là sản phẩm của
thời mở cửa đổi mới, khiến cho người dân chẳng những đói lạnh mà còn mất hết
niềm tin cuộc đời, nên phần lớn bị bệnh tâm thần, mộng du, tỷ lệ người bệnh chỉ
thua A Phú Hản mà thôi.
Ngành du lịch bắt đầu phát triển, mà cao điểm
từ năm 1995, với sự hợp tác của các công ty du lịch ngoại quốc như EW và A.I.O
tour (Japan), Ðài Loan.. trụ sở đặt tại Imex cũ, đường Nguyễn Huệ, đã bị cháy
ngày 14-10-1991. Kèm theo trong dịch vụ béo bở này của Hà Nội, là dịch vụ kinh
doanh phim SEX. Trong khi đó, thành Hồ cũng tưng bừng nạn tẩu tán vàng, đô la
trong nước, ra ngoại quốc nhất là các nước Ðồng Nam Á, qua các cửa khẩu ở biên
giới Hoa Việt, Nghệ An, Tây Ninh, Long An, Châu Ðốc.. tất cả đều của bọn tư bản
đỏ, cán bộ gốc, chuyển ra ngoại quốc rữa thành tiền sạch, trước khi gửi tiếp
vào các ngân hàng quốc tế.. nhất là Thụy Sĩ hay chuyển ngân cho Việt kiều tại
Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu.. để mở tiệm vàng, ra báo, mở đài phát thanh, tàu
đánh cá, mua nhà.. Rồi thì những dịch vụ làm giấy tờ giả mạo, trong các chương
trình ODP, HO, Con lai, kết hôn.. tràn lan khắp Miền Nam, nhất là tại thành Hồ..
giúp cho một số lớn can bộ và gia đình Việt Cộng, sau khi tham nhũng tom góp
được một tài sản lớn, mua giấy tờ giả mạo, cưới vợ chồng giả, để trốn ra hải
ngoại hưởng thụ..
Phú quý sinh lễ nghĩa, giàu có thì
phải xài tiền, không những chỉ có cán đảng, tư bản đỏ, bọn thương buôn tư bản
ngoại quốc, mà cả Việt Kiều bôn phương về, vung tiền qua cửa sổ, để phanh thây
xé xác những người con gái, đàn bà nghèo vô tội VN, vì tiền phải bán thân cho
thú vật tại các tụ điểm ăn chơi hay trá hình ở các khách sạn hạng sang Bông
Sen, Bến Thành, Cửu Long, Hướng Dương, Hải Âu, Hoa Sen, Lê Lai, Hữu Nghị,..
đồng lúc với những trung tâm du hí Bình Quới 1-2, Ðầm Sen, Hồ Kỳ Hòa và Suối
Tiên. Nơi nào dù ở trong khách sạn hay ngoài trời, đảng qua thân xác của người
phụ nử VN, tha hồ trấn lột những con thiêu thân, quyết lòng vung tiền, để trả
thù dân tộc.
Thành Hồ cái gì cũng có mà bó tay
không thể giải quyết được, vẫn là tham nhũng, tệ doan xã hội và nạn nhân mãn.
Ðể giải quyết, đảng theo Mao-Ðặng-Giang-Hồ, ban hành chính sách cai đẽ, từ sau
trận mùa hè đỏ lửa 1972, do Ðại Tứơng Anh Hùng Ðiện Biên là Võ Nguyên Giáp phụ
trách, qua hàm Phó Thủ Tướng đảng VC. Theo lệnh, mỗi gia đình chỉ được tối đa 2
con, sau đó được phá thai hợp pháp. Ðối với Hoa kiều từ trước tới nay tại thủ
đô, vẫn sống riêng biệt như một nước khác nước VN, ở Chợ Lớn theo thống kê năm
1958 đã có 600.000 người, chiếm tỷ lệ 75% Hoa Kiều cả nước. Sau ngày 30-4-1975,
Hoa Kiều Chợ Lớn lập tức phản Ðài Loan, theo Trung Cộng để dựa hơi hù VC nhưng
vẫn bị đảng hốt sach qua ba lần đánh tư sản và đổi tiền. Sau đó Hoa Kiều càng
thê thãm hơn, khi VC và TC trở mặt, một số nghèo bị đi kinh tế mới, trong lúc
những kẻ có tiền chung vàng cho đảng để được chính thức xuất ngoại, lên tới
250.000 người, trong đó người Tàu chiếm tới 85%. Nhưng Hoa đi bớt, đã có Liên
Xô và các nước Ðông Âu đổ xô vào thành Hồ từ năm 1977 nhưng tập trung tại các
căn cứ cũ cuả Mỹ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, kể cả du hý cũng được dành
riêng ở các khách sang sang trọng như Cửu Long (Majestic), Thống Nhất (Carevelle),
Hữu Nghị (Palace) và Bến Thành (Rex)..
Nhưng Tàu đi rồi Tàu lại về, chẳng
những Hoa kiều mà còn đủ Tàu trắng, Tàu đỏ. Tất cả đang làm chủ thành Hồ như
trước tháng 4-1975 đã khống chế mọi sinh hoạt của Sài Gòn. Ba mưới hai năm qua,
thành Hồ là thế đó, cho nên người Việt dù có thương nhớ Sai Gòn tới đứt ruột,
vẫn không ai muốn nhắc tới cái tên Hồ Chí Minh đang hiếp dâm Hòn Ngọc Viễn
Ðông., dù biết chắc sớm muộn gì thủ đô yêu dấu cũng được mang tên Sài Gòn như
tiền nhân ta đã gọi từ hơn ba trăm năm trước .
Ngày 29-4-2008, toàn bộ Bắc Bộ Phủ
trải thảm đỏ để đón ‘ Ðuốc Máu ‘ của giặc Tàu tới Sài Gòn ra Hoàng Sa, trong sự
căm phẩn của đồng bào cả nước.
Sài Gòn sau ngày 1 tháng 5 năm 1975 bị
VC cưởng chiếm còn nhiều chuyện la viết làm sao cho hết đưọc ?
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
tháng
4-2016
MƯỜNG
GIANG
No comments:
Post a Comment