Xứ
Tây có ngày đầu tháng tư « gạt gẫm », ngày cá tháng tư (Poisson
d’Avril) thiên hạ bày đủ trò phỉnh nhau cho vui, những chuyện « lừa dối »
vô thưởng vô phạt với mục đích chọc cười người khác.
Sàigòn ngày cuối tháng tư năm 75 dân Miền Nam bị gạt một cú mất mạng, 40 năm sau vẫn chưa hoàn hồn.
Ngày
đó trời đất sụp đổ theo thể chế VNCH, trong phút chốc thiên hạ đổ ra
đường nhốn nháo, hoang mang, nhìn Sàigòn sắp hết hạn là thủ đô của nước
Việt Nam Cộng Hòa.
***
Đầu tháng ba đài truyền hình số 9 trực tiếp phát thiên phóng sự đợt tản cư từ miền Trung về hướng Nam khiến dân chúng thấp thỏm tự hỏi, nếu Miền Nam sẽ có ngày như miền Trung, Sàigòn sẽ đi về đâu ?
Quan
chức Mỹ, nhân viên sở Mỹ đã rút dần, một số người đã ra đi, nhưng cả
chục triệu dân Miền Nam sẽ đi đâu để lánh họa cộng sản, mà đi bằng cách
nào, câu hỏi lớn khiến Sàigòn thất thần như người mất hồn.
Sáng
ngày 08 tháng 4, Dinh Độc Lập bị đánh bom, trên lầu hai ĐH Văn Khoa náo
loạn, sinh viên đổ xuống sân trường, cột khói trắng bốc lên màu tang
tóc, tôi nắm tay cô bạn thân, hai đứa nhìn nhau chết lặng.
Rồi
ngày định mệnh gõ cửa, Sàigòn thật sự bị bỏ ngõ, người ta thập thò
trước nhà, nửa muốn ra đường xem mặt việt cộng, nửa ngại bị « họ xơi tái
», chị em tôi bị bố mẹ cấm cửa, đứng trong sân nhìn thiên hạ tụm năm
tụm ba đưa tin vịt cồ.
Ông
Soạn thất chí khi quân đội thoái lui từ tháng ba, ông cùng đồng đội và
đồng bào miền Trung chạy giặc với đủ loại phương tiện, xe GMC, xe đò, xe
Honda, xe đạp, xe ngựa, đi bộ…trực chỉ Sàigòn.
Hôm
nay ngày cuối cùng ông khoát bộ chiến y cầm loa phóng thanh đếm, một
hai ba, mọi người theo dõi nhân vật trong bộ quân phục VNCH đang tiến
vào xóm, nín thở đợi chờ.
Ông tiến bước và lên tiếng,
- Nhà tôi hôm qua bị mất trộm một đàn gà gần chục con, tôi thông báo để bà con nếu ai thấy đàn gà của tôi xin mách giúp.
Bà Tư bực tức lớn tiếng,
- Việt cộng ở ngay đầu ngõ, ông không lo sao mà còn mặc đồ lính đi tìm gà.
Ông gìa lì lợm,
- Ai chả biết chúng nó đang vào đây, nhưng chúng nó làm gì được tôi nào.
Tôi
không giận như bà Tư mà thấy nghèn nghẹn, người lính khi bắt buộc phải
buông súng tháo chạy đau lòng đến thế đấy, Miền Nam đang hấp hối sắp rơi
vào địa ngục CS, tôi không hình dung nổi ngày mai sẽ ra sao.
VNCH
buông súng, việt cộng bồng súng độc quyền đổi đời dân Miền Nam, sĩ
quan, quan chức chính quyền, văn nhân nghệ sĩ VNCH bị kết án có « nợ máu
với nhân dân ».
Chả
cần quan tòa xét xử, ngụy quân, ngụy quyền tự động trở thành tù nhân bị
lùa vào trại cải tạo, địa ngục trần gian vừa mở cửa đón dân Miền Nam bị
cưỡng bức chung sống với cộng sản.
Tất
cả sinh viên nhập học trước năm 75 được gọi đến trường học tập chủ
nghĩa CS, chúng tôi, « tàn dư Mỹ Ngụy » bị nhồi nhét nọc độc Mác Lê, xen
kẽ những chuyến lao động cộng sản, ra ruộng đắp đê, đào kinh, trồng
khoai... y chang gu lắc Xibêri.
Trong đợt lao động có bạn nổi hứng làm mấy câu đối mà chưa có câu đáp,
Ra kinh - Thấy Kinh - Thất Kinh
Riêng
tôi khi thấy con kinh là thất kinh hồn vía, vì đứa đứng dưới ruộng bị
đỉa đeo bám hút máu, con gái trên đê tải đất run bắn người vẫn phải ôm
nắm bùn khi vài con đỉa nghoa nghoe hù dọa.
Chuyện
hành xác tuy khổ nhọc, lao động đến đuối sức với khẩu phần một trứng
vịt cho bốn người ăn với rau, hôm sau ra kinh đúng là thất kinh, nhưng
một năm chỉ có vài lần.
Đáng
sợ hơn là chuyện tẩy não, nhồi sọ, xảy ra hàng ngày, ngoài mục điểm báo
giữa giờ học, những buổi họp tổ thảo luận thật khiếp đảm, đoàn viên
đảng viên nhai đi nhai lại, nhờ ơn bác đảng, gia cấp vô sản …
Đám
Mỹ ngụy tàn dư chúng tôi bị tra tấn liên tục, may mà chưa có ai hóa rồ,
đôi lúc tôi như bị mộng du giữa ban ngày, sân trường nhìn đâu cũng nón
lá, nón tai bèo chen vai nhau như trong rừng Trường Sơn.
Văn
Khoa bây giờ xa lạ đến thế, con gái quần đen áo bà ba, con trai dép
râu, các bạn giờ đâu còn là bạn ta ngày xưa thân ái, họ đang mê sảng
kinh tế chính trị Mác miết, ca ngợi thiên đàng CS trên đầu môi chót
lưỡi.
Buồn thay ngày trước, bạn áo quần bảnh bao, nhảy nhót ăn chơi đúng điệu, bi chừ bỗng hóa thân như bộ đội ở rừng, hút thuốc rê tự vấn, tố cáo bằng hữu, sao bạn có thể lột xác như bướm đêm thế này.
Nghe
bạn « thuyết pháp » tôi đâm lú lẫn, ô hay bạn nói tiếng việt cớ sao tôi
chẳng hiểu mô tê chi cả, đến phiên tôi phát biểu, tôi ú ớ như đứa mù
chữ, rặn mãi chả ra một câu ca ngợi đúng điệu « thờ ma cộng sản ».
Nói
theo kiểu « dép râu », tôi mất tập trung, giời ạ, hiểu sao nổi thiên
đàng CS trong khi cả nước đang đói meo râu chỉ có bobo với ngô khoai,
thức ăn của gia súc ngày xưa, bây giờ được bán theo nhân khẩu mới đểu.
Nhờ
ơn bác đảng, cả nước lui về thời than củi, cúp điện, cúp nước, cúp thực
phẩm, cúp tự do…, CSVN đoạt mấy loại cúp độc nhất vô nhị mà chưa có
quốc gia nào trên thế giới dám đăng cai phát giải.
Tôi
chỉ bị mất tập trung thôi, tôi mà phát điên lên lại khổ cho bố mẹ, và
tôi tiếp tục mất tập trung đến lúc ra truờng, bài thi « chính chị chính
em » của tôi đạt điểm khá, nhờ nhóm Mỹ Ngụy chúng tôi chia nhau làm bài.
Trả
nợ quỷ thần cho cán cộng xong, tới lúc đi làm mới chua, được đào tạo
dưới « chế độ ngu dân » nên đầu óc tôi rỗng tuếch không nhớ nỗi đường
lối bác đảng ra răng.
Được
bổ nhiệm làm cô giáo vùng kinh tế mới, cầm tờ quyết định của phòng tổ
chức, tôi đi giữa sân trường thẩn thờ, bước chân vô định như tương lai
của mình, chưa biết nói làm sao để bố mẹ yên lòng.
Trên
đường về nhà tôi gặp cô bạn cùng khóa đang làm việc trong công trình do
Pháp viện trợ ở ngoại ô Sàigòn, nó rủ tôi đâm đơn xin việc vì ở đó
thiếu người, tôi mừng như bắt được vàng.
Trước
ngày « ứng thí », tôi mua báo « Nhân Dân » để cập nhật chủ thuyết mác
lê lết mà tôi đã bỏ lại ở sân trường, đọc hết tờ báo, đọc mờ mắt mà tôi
vẫn mù mờ.
Hôm
sau trình diện phòng Tổ Chức (phòng Nhân Sự) để cán bộ sát hạch trước
khi nhận việc, bước vào phòng Tổ Chức tôi rùng mình, cố nhớ chủ thuyết «
ma quỷ » tôi vừa tụng hôm qua, mà sao trí nhớ cứ chơi khâm, càng căng
thẳng đầu óc càng lú lẫn không nhớ ông Mác là người Đức hay Liên Xô.
Một
lần nữa tôi lại mất tập trung, đành chịu vì tôi không thích giao du với
cán cộng nên những gì họ dạy bảo tôi quên biến rồi, tôi thầm mong người
phỏng vấn chỉ hỏi về trình độ chuyên môn cho tôi nhờ.
Quan cán tiếp tôi ngồi rút chân lên ghế kiểu nước lụt, gương mặt khắc khổ, đôi môi thâm xì, di chứng sốt rét những ngày ở rừng.
Ông châm điếu thuốc lào, lật tới lật lui hồ sơ của tôi rồi nghiêm giọng thách đố,
- Cháu dịch câu này ra tiếng việt, nếu dịch thông suốt cháu sẽ được nhận việc.
Vậy là thoát ba cái mớ rác rưởi chính trị dối trá, tôi mừng húm nhỏ nhẹ,
- Vâng, xin chú cứ hỏi.
Quan cộng tằng hắng ra vẻ nghiêm trọng, nghe này,
- « Quích sơ măn bông xên » là cái gì, cháu dịch đi.
Tuy quan cán trước mặt tôi gìa ngắc, nhìn chán lắm, nhưng tôi lại thấy tinh tú quay cuồng mới đáng sợ.
Từ
thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ nghe một câu tiếng tây như rứa, mà
giọng quan lên xuống như tây thứ thiệt khiến tai tôi lùng bùng, đầu óc
hoảng loạn mụ mẫm.
Tôi
nhớ ông tây bà đầm đứng lớp ở Văn Khoa Sàigòn chưa hề đụng đến mấy chữ
này, mấy niên học có bao giờ nghe thầy nói « sơ măn sơ miết » gì đâu,
giờ bỗng quan phán một câu làm tôi phát sốt.
Đúng
là quan bắt bí tôi, kiểu này là « mơ không thấy nổi » việc làm gần
Sàigòn, giờ thì số phận của tôi như chuông treo tóc tơ, tương lai trực
chỉ vùng kinh tế xa xôi diệu vợi.
Nghĩ đến viễn cảnh u tối sắp tới, tôi bèn lấy hết can đảm mà sao tôi cứ lắp bắp,
- Thưa chú, chú có thể đọc lại câu đó một lần nữa được không ?
Thấy tôi quýnh quáng ngớ người, quan cán cười ngất, dịu giọng,
-
Chú đùa, đấy là cách nói lái « quăng sơ mít bên sông » đó mà, ngày mai
cháu vào đây nhận việc, công trường đang cần người khẩn cấp.
Cú
gạt gẫm lần đó làm tôi suýt đứng tim, trên đường về nhà tôi đạp xe và
cười tủm tỉm một mình, chắc thiên hạ tưởng tôi điên, ai từng sống với
chế độ CS mà không có lúc lên cơn hoảng loạn như tôi ngày hôm đó.
Năm
đầu tiên làm việc ở đây, ngày 14 tháng 7 chúng tôi được mời đến Lãnh Sự
Quán Pháp dự lễ quốc khánh, tôi có nhiệm vụ cầm chuyện với nhóm Tây
đang làm việc ở nhà máy, cứ tưởng đơn giản như đang giỡn, nhưng hôm đó
tôi suýt bị chữ nghĩa chơi khâm.
Nói
chuyện với Tây không khó, cái khó là xếp của tôi cứ đứng ỳ trước quầy
thức ăn khai vị «tranh thủ» uống rượu đến « phút thứ chín mươi » vì «sâm banh» chưa lọt lưới, khiến tôi siểng niểng như kẻ sắp bại trận.
Nhân
viên phục vụ tiệc Buffet khui Champagne cầm chừng, khui chai nào là hết
ngay, xếp cán của tôi chậm chân mới uống có một ly, chưa đủ cơn thèm.
Xếp thiếu rượu, tôi bị vạ lây, mặc cho thiên hạ đưa đẩy chuyện vãn, xếp bảo tôi,
- Mình phải kiên trì bảo anh phục vụ khui Champagne, cháu yêu cầu anh ta đi.
Giời
ạ, anh phục vụ người VN mà sao tôi nói không nên lời, uống rượu tôi rất
thích, uống kiểu đòi nợ như vậy uống sao nổi, mà tôi làm gì có tính «
kiên trì » như xếp, kiên nhẫn làm việc tôi không ngại, kiên trì làm lỳ
thì tôi chịu thua.
May cho tôi, đang bối rối chưa dám lên tiếng mè nheo đòi rượu, gã tây trong đoàn dẫn xác đến hỏi xã giao,
- Quý vị thấy tiệc vừa khẩu vị chứ ?
Như bắt được vàng, tôi dẻo mồm,
- Rượu tây không chê vào đâu được, nhưng tôi chưa thử Champagne.
Thế
là ông tây ra tay « cứu bồ », gã bảo anh kia khui Champagne, xếp tôi hả
hê nốc vài ly, tôi chứng kiến màn ăn vạ, ăn xin, ăn hôi tệ nhất trong
đời.
Gía
tôi say được lúc này chắc đỡ nhục, dù sao xếp cũng là người VN, làm sao
Tây hiểu được việt cộng với VNCH khác nhau cả một « chiến tuyến », từ
rừng ra phố họ không thể tỉnh táo trước cơm ngon rượu ngọt.
Tửu
lượng của tôi không tệ nên đầu óc vẫn còn minh mẫn, xếp hớn hở uống từ
rượu khai vị (ngọt) cho đến rượu trắng, đỏ, Champagne… làm mấy con ma
men choảng nhau tưng bừng, nhìn xếp xiêu vẹo tôi đâm lo.
Hình như lần đầu trong đời được uống rượu Tây thỏa thích nên xếp bốc lửa nỗi hứng phán một câu xanh rờn.
Trước khi lên tiếng, xếp dặn tôi, cháu cứ dịch thẳng thắng, bữa này là lễ mà, xếp lim dim cười mỉm,
-
Quý vị còn nhớ chiến trận lòng chảo Điện Biên Phủ chứ, bao nhiêu vũ khí
tối tân của Tây cũng không thắng nỗi chúng tôi, vì chúng tôi « kiên
cường, dũng cảm ».
Cái
lo của tôi đã tới, chết cha mi chưa, xếp lên men nả một tràng đại liên,
tôi lãnh trọn băng đạn, lúc này mà dịch đúng ý xếp không biết chuyện gì
sẽ xảy ra, bỗng tôi thấy rượu Tây có vị chát ngang xương.
Trong
lúc cán bộ ngả nghiêng theo hơi men, tôi dịch một cách méo mó để tránh
xảy ra một « Điện Biên » bên hông lễ Quốc Khánh của Tây, tôi cười như
mếu, lên tiếng,
- Trong trận Điện Biên chúng ta là đối thủ, chuyện thắng thua chỉ là dĩ vãng, bi chừ chúng ta là bằng hữu.
Hú
hồn, xếp cán không hiểu tiếng Tây lại đang nhảy đầm với con ma men, xếp
Tây hài lòng nghĩ bạn ta biết dĩ hòa vi quý, thế là hai xếp vui vẻ cụng
ly mặc cho « Đông Tây không thể gặp nhau ».
Tôi
thoáng hoang mang tự hỏi, mình đã nhiễm cái thói gạt gẫm của cán cộng
rồi sao, có thật là tôi đang thay đổi hay tôi cũng chỉ là nạn nhân của
tình huống cười ra nước mắt như ri.
Trăm
lần không, làm sao tôi có thể bị nhiễm trò lường gạt của họ, chẳng qua
là trong lúc bom rơi đạn nổ tôi phải tránh đạn, chứ thường ngày tôi dịch
kiểu này chắc nhà máy đang xây sẽ sập mất.
Tàn
tiệc xếp cao hứng nắm tay ông Tây phát ngôn bừa bãi, tôi « miễn dịch »
cứ để xếp thao thao « gửi gió cho mây ngàn bay », ông Tây nhìn tôi cười
thông cảm vì biết lúc này rượu nói chứ không phải xếp nói.
Hôm sau vào sở, rượu đã bốc hơi, xếp hỏi tôi,
- Hôm qua rượu ngon thật, chú có quá chén nhưng có quá lời không nhỉ
Tôi ỡm ờ,
- Chú có nhắc đến chiến trận Điện Biên.
Xếp chồm tới,
- Chú phát biểu làm sao ?
Đến phiên tôi chơi khâm xếp đây, tôi từ tốn,
- Chú nói phe ta toàn thắng đuổi Tây chạy thí mạng.
Xếp nhăn nhó,
- Chết chữa, thế cháu dịch y chang lời chú.
Tôi im lặng một chút cho xếp phát rét, rồi câu rê,
- Lúc đó cháu chưa say nên nói năng cẩn thận.
Xếp quýnh quáng,
- Cụ thể cháu dịch làm sao ?
Tôi khoái trí vừa cho xếp lên ruột để xếp hiểu hôm qua xếp làm tôi xoắn ruột như thế nào, tôi chậm rãi,
- Dạ cháu cố ý dịch sai lời chú, cháu nói, chuyện thắng thua chỉ là dĩ vãng, bây giờ Ta với Tây là bạn.
Xếp đập tay xuống bàn làm tôi hết hồn,
- Hay lắm, cháu nhanh trí đấy, được đào tạo dưới chế độ XHCN nên có khác.
Tôi
không trả lời, chỉ muốn kêu trời cho hả giận, giận phận mình phải sống
với họ, giận xếp ham uống đến mất khôn phát ngôn bừa bãi, làm tôi phải
sử dụng đến chiêu trò lếu láo của họ.
Bốn
năm sau, công trình ở ngoại ô Sàigòn hoàn tất, tôi ra tỉnh giáp ranh
giới Sàigòn làm việc trong phòng kỹ thuật của một công trình khác, cũng
do Pháp viện trợ.
Tại
đây tôi có một đồng minh « tàn dư Mỹ Ngụy », Thành, kỹ sư trẻ tốt
nghiệp Phú Thọ, nhân sự còn lại toàn kỹ sư kỹ sải có bằng của Liên Xô,
Đông Đức, chuyên ngành Xây Dựng (Công chánh) Cơ Khí, Điện…
Phòng có cô cán cộng và tôi là nữ giới, cô tốt nghiệp ĐH Kiến Trúc ngoài Bắc, ngành cấp thoát nước, chưa thấy ĐH Kiến Trúc nào trên thế giới có ngành nghề lạ như rứa, ĐHCS chắc chắn phải khác người.
Sàigòn
bị đổi tên đã mười năm, cán cộng ngoài Bắc tìm mọi cách để được chuyển
công tác vào Nam, có người thầm mơ, giá Miền Nam giải phóng Miền Bắc, vì
thế cảnh vợ chồng làm cùng « cơ quan » là chuyện thường.
Phòng
kỹ thuật chỗ tôi cũng không ngoại lệ, chồng KS, vợ làm căn tin, hành
chánh, tài vụ (tài chính), thủ kho, cư xá của nhân viên nhà máy hồi xưa,
nay được chia cho gia đình cán bộ ngoài kia nhập cư vào đây ở.
Họ
trồng rau trên bãi đất rộng sau nhà, dùng điện, nước công cộng làm đá
(nước đá), kem bán cho công nhân nhà máy, nấu cám lợn, « tranh thủ tất
tần tật » của công để cải thiện kinh tế gia đình.
Trong
đám cán cộng có anh Phú kỹ sư già, gần năm mươi vẫn « chửa vợ », kỹ sư
bậc 4, tột đỉnh kỹ sư, thanh liêm, « dị ứng » đoàn đảng, có biệt danh «
kỹ sư chữa » hết bậc, dù là chửa vợ hay chữa máy.
Tủ
lạnh, máy may, quạt máy, bếp điện, xe Honda… vào tay anh là « dứt bệnh
», anh chữa không lấy tiền, chữa vì mê chữa máy, chỉ thế thôi.
Tủ
lạnh nhà anh công suất « siêu sao », đá cục, đá tảng anh không bán, anh
lấy nước đá làm nước chanh đường cho anh em đi công trường về uống,
hoặc biếu hàng xóm có tiệc, hay giỗ chạp.
Chữa
máy ngon lành, chửa vợ anh cũng được tiếng « lì lợm », thiên hạ gả bán
mỏi miệng anh vẫn làm lơ, chị cán bên tài vụ dúi cô em văn công ngoài
Bắc vào tay anh để cô nhập hộ khẩu vào Miền Nam.
Cô
xinh gái, tuổi đôi mươi, thế mà anh theo đúng chính sách « ba khoan »
thời chiến, khoan yêu, khoan cưới, khoan đẻ, dù chiến tranh đã chấm dứt
mười năm rồi.
Anh
bảo, nhất gái văn công « giao lưu thoải mái », rày đây mai đó, biết đâu
là nhà, bạ vào chỉ khổ tấm thân già phải hốt ổ của người khác, có cho
không anh cũng không nhận.
Anh
là dân Hà Nội chính tông, có anh Khoa đồng hương, kỹ sư điện tốt nghiệp
Liên Xô, anh Khoa cao to điển trai, nói năng nhỏ nhẹ, vợ anh Khoa, chị
Thắm cao chưa tới một mét tư, già nhăn nhúm, tối mặt với chức thủ kho và
đám lợn phải vỗ béo.
Vụ anh Phú từ chối cô Nụ văn công bắt mồi để anh Khoa than thở, hớp ngụm trà lấy trớn anh cười cười,
-
Số bác đỏ như thế mà chê, chả bù tôi ngày trước ngu ngơ vâng lời tuyệt
đối Đảng, bị đồng chí bí thư cưới cho cô bộ đội đảng viên xuất sắc, bây
giờ hối tiếc cũng muộn mất rồi.
Tôi trêu anh Khoa,
- Vợ anh đảm đang chu đáo, « cơm, cám, đá… » thứ nào cũng xuất sắc, « mơ không thấy nổi » đấy.
Anh lắc đầu ngao ngán, anh Phú khoái trí pha trò,
- Nói thật với các vị, con gái rắc rối bỏ xừ, ở vậy cho yên thân.
Anh
Phú từng tâm sự với tôi, ông cụ của anh làm việc với Tây, bị kẹt lại
năm 54, cộng sản đã tru di gia đình anh, anh em nhà anh thề « không chơi
» với đoàn, đảng, họ vùi đầu học và sống với nghề mà họ yêu thích, em
gái của anh là bác sĩ.
Vì chưa biết Hà Nội nên có lần tôi hỏi anh về ba mươi sáu phố phường ngoài ấy, anh chua chát nói,
- Hà Nội của đảng chỉ độc nhất một «phường gạt gẫm», mấy phường còn lại chỉ toàn «phường ăn hại».
Tôi mến anh Phú, anh là người tự trọng, đàng hoàng, khác hẳn với đám cán cộng làm gì cũng «tranh thủ, có ý đồ», bất chấp đạo đức.
Ông
xếp công trình ở đây có bằng Đảng Viên tu nghiệp bên Đức đương nhiên
phải nắm chức bí thư, quyền hành nằm trong tay quan, ít ngờ nghệch hơn
quan cán cũ gốc bộ đội ở rừng.
Nhờ
cái bằng «lừa dối» nặng ký bên Đức, nên quan tung chiêu khá lịch lãm,
cũng đói ăn nhưng xếp chả thèm ăn hôi mà «chủ động» mời tây đi ăn nhà
hàng mới bảnh.
Cứ
khách Hữu Nghị (Palace thời VNCH) hoặc Caravelle ở sàigòn trên tầng
thượng xếp mời Tây dùng bữa, rượu bia, bơ, phó mác, thịt nguội, thịt bò,
thịt cừu… theo sát thực đơn « bơ sữa Tây » mà gọi.
Trong đám cán cộng có gã KS tốt nghiệp bên Liên Xô ngoài ba mươi, từng tu nghiệp bên Tây vài tháng, tiếng Pháp vừa đầy cái lá mít, đầy tham vọng, mỗi lần đi tiệc hắn «tranh thủ» kéo ghế ngồi cạnh Tây bốc phét.
Tôi
chả phiền, nhắm rượu nghe hắn líu lo với Tây, lấy le với đồng chí đồng
rận, ra điều ta nói tiếng tây như gío, may mà gió thổi bay mất lời hắn
nói, chứ chữ nghĩa của hắn động lại chắc Tây dựng tóc gáy.
Hám Tây thì cứ hám, nhưng khi Tây bàn về công việc, nói về điều khoản trong hợp đồng, kỹ thuật…, hắn khều tôi và rút êm.
Xếp
cán của công trình này khoái Cognac, chỉ uống loại này, tửu lượng cao,
đầu óc minh mẫn nói đâu ra đó, nên lúc làm việc tôi không vất vả đảo
chữ, đổi nghĩa, líu lưỡi như trong tiệc quốc khánh Tây năm nào.
Có
lần quan tổng ngoài Hà Nội vào dự tiệc, thấy KS Liên Xô kè kè Tây,
tưởng hắn là thông dịch viên, quan trịnh trọng mở lời bằng một «đích
cua» sáo rỗng nặc mùi khẩu hiệu làm hắn điêu đứng.
Quan
dứt lời, hắn đỏ mặt tía tai nhìn tôi trân trân, tôi phớt lờ đứng lên
qua bàn bên cạnh lấy xô nước đá, giọng hắn ngắt quảng, do dự.
Tôi không nhịn được cười, mặc cho hắn làm bừa, ông Tây nóng ran lỗ tai, sợ để hắn líu lo sẽ sinh chuyện nên ông kéo tôi về chỗ ngồi cạnh ông, lúc này quan Hà Nội bật ngửa, nhìn tôi trân trân,
- Thế «đồng chí» mới là «phiên dịch» chính thức à?
Tôi
gật đầu thay cho tiếng cười sắp bật ra khỏi miệng, nhưng bỗng giật
mình, chết chửa mình có thề thốt vào đảng hồi nào mà quan gọi mình là «đồng rận», đoàn viên TNCS mình còn sợ xanh mặt nói gì tới đảng.
Quan
cộng làm tôi nhớ đến anh Phú, anh chả gọi ai là đồng chí, cũng không
xưng « cậu, tớ », cứ tôi với anh hoặc em mà nói chuyện, dân Hà thành thứ
thiệt có khác.
Từ
ngày Sàigòn bị đổi tên, cứ tưởng không thể đội trời chung với họ, thế
mà tôi đã cảm mến những người bên kia chiến tuyến, tuy sống với CS chừng
đó năm thánh họ vẫn giữ được nhân cách của một người tử tế.
Bỗng
tôi hết giận xếp cán cũ nói năng xiêu vẹo trong tiệc quốc khánh Tây
ngày trước, mà thương hại con người chất phát bị đảng gạt gẫm đưa ra
chiến trường nướng tuổi thanh xuân, để ngày trở về mang bệnh sốt rét
rừng, cuối đời vớt vát vài ly bia rượu.
Sau
này tôi được tin xếp cũ bị đá về vườn, nhường chiếc ghế trưởng ban cho
con ông cháu cha ngoài Bắc vào Nam vơ vét của cải của dân Mỹ Ngụy.
Cuối
thập niên tám mươi tôi dứt áo ra đi, dừng chân ở Pháp, lễ Quốc Khánh
hàng năm, nhớ đến ly Champagne ngày xưa cười ra nước mắt, Champagne bây
giờ mình tự khui, tự rót chứ chả phải nài nỉ xin xỏ ai.
Mười
bốn năm sống với CS buồn nhiều hơn vui, vì chuyện vui của tôi đôi khi
đọng lại ít nhiều xót xa cho những người không chọn chế độ CS, họ sinh
lầm địa phương, mang danh CS mà lòng không cam.
Bốn
mươi năm sau ngày tận cùng của nước VNCH, những trò gạt gẫm vẫn còn
tiếp diễn, ngoạn mục, trơ tráo bẩn thỉu hơn gấp trăm ngàn lần những ngày
đầu cán cộng ở rừng tràn vào Sàigòn.
Dạo
đó cán ngố còn trá hình «làm đầy tớ nhân dân», vợ cán đi chợ giấu con
gà dưới bó rau muống, một chiếc Honda đèo cả gia đình, vàng cây chôn
dưới gốc cây.
Việt
cộng thời nay ghê gớm hơn, đảng viên cao cấp hành xử như du đảng, họ
thanh toán nhau bằng trò ngụy trang tai nạn giao thông, ngộ độc thực
phẩm, nhiễm độc phóng xạ…, đối thủ chắc chắn sẽ im lặng ngàn thu.
Như
trong một bài viết gần đây của một tác giả, đảng viên phải «sống điêu,
sống gian, sống vờ, sống giả», những kẻ bị «chết lòng tử tế».
Đáng
buồn hơn trò gạt gẫm của việt cộng đã lây nhiễm không ít dân Sàigòn cũ,
tàn dư Mỹ ngụy ngày nào giờ cũng thay lòng đổi dạ, thích ứng tối đa,
hội nhập hết mình XHCN nên «lòng tử tế» bị bào mòn gần hết.
Họ
học thói lừa đảo trấn lột người nhà sống ở ngoại quốc bằng những chiêu
trò tệ chưa từng thấy, huynh đệ một lần nữa tương tàn không vì tiền đồ
tổ quốc mà vì «tiền đô».
Nếu
bốn mươi năm về trước Sàigòn bị gạt một cú mất mạng, thì bây giờ TP Hồ
Chí Minh lại đang gạt gẫm đồng bào, phi trường Tân Sơn Nhất có quan thuế
(hải quan) trấn tiền « hồi hương », về đến nhà anh em trấn tiền « huynh
đệ », gặp bằng hữu bị trấn tiệc « hội ngộ ».
Dân
tị nạn biến thành « con bò Hòa Lan » dù mình không ở xứ hoa Tulipe, chỉ
là con bò béo ngậy để họ vắt sữa, đã là việt kiều thì phải « chi », mặc
cho việt kiều bên trời Tây góp nhặt từng xu, làm cùng lúc hai ba việc.
Đau hơn là vài bác tỵ nạn «ăn cơm Úc, Mỹ, Châu Âu» lại thờ ma việt cộng, ca ngợi VNCS bây giờ «tự do, dân chủ» hơn cả phương Tây, «hạ quyết tâm» làm một chuyến hành
hương về đất tổ vái lạy cộng sản.
Họ
quên mất thuở ngồi tù cải tạo, lúc xuống tàu đi tìm Tự Do suýt mất
mạng, thề không chung sống với cộng sản, xin nhập tịch nước tạm dung từ
bỏ cộng sản, vậy mà ngày nay «Sàigòn gạt gẫm» lại là bến mơ.
Bài «Vĩnh biệt Sàigòn» của bác Nam Lộc làm tôi thổn thức,
« Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,
Sàigòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời »
Cô
gái Sàigòn trinh trắng ngày trước giờ còn đâu, Sàigòn ngày nay chỉ là
cái bóng của hồn Việt năm xưa, của Việt Nam Cộng Hòa những ngày Sàigòn
chưa bị đổi tên, chưa biến thành đứa gạt gẫm kẻ tha hương.
Avril 15/ Đoàn Thị
No comments:
Post a Comment