Thursday, April 30, 2015

Cờ Vàng trên đỉnh MISSION / Northern California U.S.A. 30-4-2-15

Cờ Vàng được treo trên đỉnh của Mission Peak /Northern California
Nhân ngày 30-4-2015 kỹ niệm 40 năm Quốc Hận 
( hình do KB Nguyễn Hải Hoàn cung cấp)








Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4

Luật sư Lê Công Định phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với AFP
tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/4/2015.

AFP photo

Trong chuyên đề Ký ức 40 năm hôm nay Mặc Lâm có cuộc trao đổi với Luật sư Lê Công Định, nguyên Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư Sài Gòn, một trí thức từng có nhiều bài viết cổ súy cho dân chủ tại Việt Nam. Ông là con của một gia đình cách mạng sinh trưởng và lớn lên tại Sài Gòn nhưng có cái nhìn khác về ngày 30 tháng 4 năm 75. Luật sư Lê Công Định từng bị tù hơn 4 năm về tội tuyên truyền chống phá cách mạng và đây là lần phỏng vấn đầu tiên ông dành cho RFA sau khi ra khỏi trại giam vào ngày 06 tháng 2 năm 2013. Trước nhất LS Định nói về ký ức ngày 30 tháng 4 của mình khi ấy ông vừa 7 tuổi:

- "Tôi còn đọng lại trong ký ức của mình hình ảnh ngày 30 tháng 4 năm 75. Thực ra lúc đó tôi mới 7 tuổi thôi, trước ngày đó thì chúng tôi vẫn đến trường đều đặn. Những cuộc di tản trên đường phố cũng như tại Tòa đại sứ Mỹ lúc đó bắt đầu có những người chạy vào leo lên trực thăng, tôi thấy những hình ảnh đó khi đi ngang qua và nó vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi về cuộc chiến tranh.

Cái ngày 30 tháng 4 đó tôi và những trẻ con trong khu phố mình ở đã ra đường để xem mặt đoàn quân giải phóng như thế nào và sau dó thì xem TV thì thấy Ủy ban Quân quản họ tổ chức những buổi meeting đưa hình ảnh ông Hồ Chí Minh cũng như đưa những lá cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lúc đó tôi rất ngạc nhiên và hỏi ba tôi ông đó là ai, ba tôi trả lời đó là ông Hồ.

Sau đó khi lớn lên thì tôi bắt đầu hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh, tất nhiên đã bị giảng dạy một cách lệch lạc theo cái nhìn của chính quyền chứ không phải theo đúng sự thật lịch sử của nó. Do đó tôi cũng như bao thế hệ trẻ lớn lên trong lòng của chế độ mới này khi học hành chúng tôi bị tiêm nhiễm bởi cái lối truyền đạt có tính cách tuyên truyền nhiều hơn là dạy cho học sinh, sinh viên hiểu được thế nào là lịch sử trong quá khứ.

Khi vào đại học tôi nhận ra điều đó qua nói chuyện với người thân trong gia đình cũng như bạn bè của tôi, tôi mới bắt đầu tìm hiểu, đọc lại sách. Nhưng sách lúc đó hầu hết do nhà nước xuất bản làm sao mình có thể hiểu được? Vì vậy buộc lòng tôi phải đọc lại những cuốn sách in trước năm 75 của gia đình tôi và đặc biệt của người anh trai tôi. Những cuốn sách đó đã thực sự thay đổi suy nghĩ của tôi, tôi bắt đầu định hình một suy nghĩ mới, nhận thức mới của lịch sử Việt Nam từ những năm 17-18 tuổi. Tôi chỉ muốn nhìn một cách tổng quát đa chiều về lịch sử của đất nước mình.

Mặc Lâm:
- Thưa LS sau khi ông bị bắt thì báo chí chính thống rộ lên nhận định cho rằng gia đình ông là một gia đình cách mạng và đã được ưu đãi. Trong thời gian sau 30 tháng 4 thì gia đình ông có được ưu đãi như họ nói hay không thưa luật sư?
Luật sư Lê Công Định:


- Về việc đó thì nó như thế này: Ông nội tôi, bác tôi, ba tôi và thậm chí cô tôi đều đi theo phong trào cộng sản. Giống như những trí thức miền Nam lúc đó họ không thích sự có mặt của quân đội nước ngoài. Sau cuộc chiến tranh chống Pháp kéo dài không ai còn muốn thấy quân đội nước ngoài ở Việt Nam. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu người trí thức khác đều lựa chọn cho mình thái độ trung lập đối với chính quyền lúc đó.

Gia đình tôi không may được tiếp cận với những người hoạt động cho phong trào cộng sản cho nên họ bị ảnh hưởng và họ tham gia vào phong trào cộng sản gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ”.

Gia đình tôi bị ảnh hưởng rất nhiều và ba tôi thậm chí đi tù vì những hoạt động chống lại chính quyền Sài Gòn vào năm 1960 và ông nhận cái án tương đối nặng nề là 5 năm tù. Sau đó khi ra tù ông tiếp tục cuộc sống bình thường của mình nhưng vẫn âm thầm cổ vũ cho phong trào cộng sản. Năm 75 xảy ra sự kiện thống nhất thì ba tôi nghiễm nhiên trở thành một thành viên trong chế độ mới nhưng có nhiều điều sau đó khiến ông bắt đầu nhận thức ra mình đã bị lừa dối như thế nào qua các chính sách mà họ áp dụng cho người miền Nam lúc đó. Thí dụ như là giam cầm những quân nhân và công chức của chế độ Sài Gòn, cải tạo tư sản. Ba tôi đã từng tham gia vào những cuộc gọi là cải tạo tư sản đó và ông nhận ra được bản chất phi nhân của những chính sách như vậy.

Người dân trước năm 75 họ ky cóp tài sản của mình và làm ăn một cách chân chính để sống đời sống giản dị như giới trung lưu thì họ bị chụp cái mũ là tư sản mại bản, bị tước đoạt toàn bộ tài sản và đẩy cả gia đình vào vùng kinh tế mới.

Ba tôi có kể với tôi một sự kiện mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ hoài. Ba tôi kể khi đoàn làm việc của ông đến nhà một bà bán tạp hóa người Hoa để kiểm kê và tịch thu tài sản của bà thì buổi sáng bà đó vẫn còn đầu óc minh mẫn, tóc vẫn đen và nói chuyện vẫn đâu ra đó. Bà năn nỉ van xin mong người ta để lại tài sản dù là một phần, nhưng đoàn làm việc theo lệnh trên vẫn lấy toàn bộ tài sản của bà. Bà đã khóc lóc van xin suốt từ sáng đến chiều...ba tôi nói rằng khi nhìn toàn bộ tài sản của mình bị lấy đi hết thì bà đã hóa điên hóa dại, nói năng không còn bình thường nữa và tóc bà trở nên bạc trắng!

Ba tôi nhìn hình ảnh đó và ray rứt cả cuộc đời. Ông hối hận tại sao mình lại tham gia xây dựng nên một chính quyền để rồi cuối cùng người dân bình thường lại bị tước đoạt như thế này? Điều đó ba tôi kể cho tất cả các con nghe.
alt
Người dân Sài Gòn di tản hôm 30/4/1975. 
AFP photo

Riêng tôi hình ảnh bà bán tạp hóa người Hoa hóa điên, tóc trở nên bạc trắng ám ảnh và ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi từ nhỏ cho đến tận bây giờ. Gần như trong gia đình tôi có một sự phản tỉnh từ ba tôi cho tới các con.

Nói về mặt lý lịch thì tất nhiên gia đình tôi là một “gia đình cách mạng” lẽ ra cũng nhận những ưu đãi giống như bao nhiêu cán bộ trong hệ thống này, tuy nhiên có một điều xảy ra vào năm 1980 khi mâu thuẫn nội bộ bên trong hàng ngũ cán bộ giữa miền Bắc và miền Nam lúc đó. Ba tôi bị chụp cái mũ làm sai nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa và ông bị chính đồng đội của mình bắt giam trong 6 tháng trời không qua xét xử và có bất kỳ một bằng chứng nào nên cuối cùng phải thả ba tôi ra và yêu cầu ba tôi làm bản kiểm điểm để quay trở về làm việc.

Ba tôi từ chối, ông nói với họ rằng sự tham gia vào phong trào cộng sản của ông là một bản kiểm điểm quá vĩ đại của cuộc đời ông rồi. Sáu tháng tù mà những người đồng đội bắt giam ông nó cũng là một bản kiểm điểm quá vĩ đại để ông có thể tiếp tục làm một bản kiểm điểm nữa. Ông trở về đời sống dân sự bình thường.

Kể từ đó gia đình tôi đoạn tuyệt với hệ thống chính quyền này và không nhận bất kỳ một sự ưu đãi nào. Tất nhiên khi xét lý lịch bắt giam tôi thì họ vẫn xem gia đình tôi là gia đình có công với cách mạng do vậy khi xuất hiện ở Tòa sơ thẩm tôi có nói một điều như thế này: 

“ Tôi nghĩ rằng gia đình tôi từ ông tôi cho tới bác, cha, cô tôi đều đi theo cách mạng, tuy nhiên tôi đã đi ngược hoàn toàn với con đường đó”

Tôi nói rất rõ ràng nhưng sau đó coi lại trên Youtube thì họ cắt thêm một phần ở một câu khác nhét vào ngay sau cái câu mà tôi vừa nói. Họ bảo tôi đi ngược lại đường lối gia đình, những công lao của gia đình cho nên tôi thấy ân hận.
Tôi thấy buồn cười bởi vì khi nói ra câu đó tôi muốn gửi một thông điệp rất rõ ràng rằng: tuy gia đình tôi đi theo con đường cộng sản góp phần xây dựng nên chế độ này nhưng tôi lớn lên và ý thức rõ việc tôi làm và quyết định đi ngược lại con đường đó.

Mặc Lâm:
- Quay trở lại câu chuyện 40 năm thì tù nhân côn đảo, tù nhân cải tạo đã trở về nhà nhưng xuất hiện một loạt tù nhân lương tâm mới vẫn còn trong tù, điều này cho quốc tế thấy gì?
Luật sư Lê Công Định:
 

- Đối với những tù nhân cải tạo quân nhân của chế độ Sài Gòn ngày xưa chúng ta thấy nó thể hiện rõ một chính sách của chính quyền là trả thù những người từng là đối thủ của mình. Họ không có một sự khoan dung, không có sự hòa giải thật sự cho nên mới thực hiện việc đó.

Còn đối với tù nhân lương tâm bây giờ thì tất cả mọi người đểu đã thấy rằng đây là một chế độ độc tài cho nên người ta chỉ thích nghe những lời êm tai, xuôi theo cách họ nói chứ họ không nghe những ý kiến trái ngược thập chí là đối lập, do đó mới có việc bắt giam tù chính trị và tù nhân lương tâm như tôi chẳng hạn. Bởi vì tôi chỉ đơn giản nói lên tiếng nói của mình nhưng họ lại xem đó là mối đe dọa của thế lực thù địch qua đó quốc tế đã nhận rõ chính sách nhất quán của mọi chế độ cộng sản. Từ Châu Âu, Châu Á và đặc biệt là Hoa Kỳ thấy họ không thay đổi chủ nghĩa độc tài của mình.

Càng ngày chúng ta thấy càng nhiều hơn tù nhân lương tâm bị bắt nó thể hiện mối sợ hãi ám ảnh đầu óc của người lãnh đạo. Họ luôn luôn sợ quyền lực của họ bị mất do sự ảnh hưởng của người trí thức, bất đồng chính kiến hôm nay và cách duy nhất là họ đàn áp, tù đày. Cách tốt nhất dập tắt tiếng nói đối lập.

Mặc Lâm:
- Ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất đất nước nhưng 40 năm sau hai chữ “thống nhất” vẫn còn khá mơ hồ về sự hòa giải. Theo luật sư ai là người phải tỏ thiện chí một cách nghiêm túc trước? Bên thắng hay bên thua cuộc?

 
Luật sư Lê Công Định: 
- Tôi nghĩ rằng hòa giải lẽ ra là một vấn đề đương nhiên áp dụng sau khi hết chiến tranh bởi vì cả bên thắng cũng như bên thua cuộc đều là đồng bào trong nước. Họ đâu phải là hai chủng tộc khác nhau, hai kẻ thù một bên là ngoại xâm còn một bên là người bị xâm lược vậy thì việc gì phải tiếp tục hận thù và chia rẽ?

Chưa bao giờ muộn cho vấn đề hòa giải cả kể cả bây giờ 40 năm sau, không ai còn tin vào chính sách hòa giải của nhà cầm quyền nữa. Nhưng nếu bây giờ nhà nước Việt Nam thật tâm muốn thực hiện chính sách hòa giải thì họ nên làm bằng thực chất chứ không phải làm qua lời nói.

Ở đây không phải là sự hòa giải giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc vì 40 năm đã qua nên gác lại chuyện đó đi. Bây giờ điều quan trọng hơn là hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản. Ngay những người như tôi lớn lên trong chế độ mới, học hành mưu sinh trong chế độ này. Bản thân tôi, cuộc đời tôi chả liên quan gì tới chế độ Việt nam Cộng hòa cả vậy thì tôi không cần sự hòa giải của bên thua cuộc và bên thắng cuộc. Cái tôi cần là sự hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản.

Mặc Lâm: Xin cám ơn luật sư Lê Công Định.
2015-04-29
​rfa.org/vietnamese

30-4-1975 / Đại Tướng Dương Văn Minh

Từ Trái: Dân biểu Nguyễn Văn Binh, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh
Tổng Thống Dương Văn Minh, Phó TT. Nguyễn Văn Hảo, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu  (30/4/1975)


        Suốt từ bữa cơm tối hôm qua, anh chị Nguyễn Văn Binh đều bàn bạc và lo âu về vấn đề Đại Tướng Dương Văn Minh bất thần đổi ý không chịu nhận ra gánh vác tránh nhiệm nữa... Tôi và ông Đỗ Sinh Tứ chỉ ngồi nghe và không ai có ý kiến gì. Ông Đỗ Sinh Tứ, nguyên là Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ra ứng cử và đắc cử dân biểu nền Đệ Nhị Cộng Hòa và là thành viên trong Nhóm Quốc Gia thuộc Hạ Viện mà anh Nguyễn Văn Binh là trưởng nhóm. Là những người Công Giáo di cư, cả hai chúng tôi đều không có cảm tình gì với Đại Tướng Dương Văn Minh, người đứng đầu thực hiện cuộc đảo chánh Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho nên khi nói về Tướng Dương Văn Minh, cả hai chúng tôi đều cảm thấy không hứng thú gì, nhưng anh chị Nguyễn Văn Binh thì lại khác, nếu không muốn nói là ngược lại. Tôi không rõ tình cảm, quan hệ của họ ra sao, nhưng quả thật anh chị Binh rất tán thành và ủng hộ Tướng Dương Văn Minh, cho dù anh Binh là người Công Giáo và được hưởng đặc ân của bà Ngô Đình Nhu theo như anh thường tâm sự với tôi mỗi khi hai anh em nhàn rỗi...
        Mặc dù ông Đỗ Sinh Tứ đang bận rộn cho việc bán và dọn nhà. Ông Tứ sáng nào cũng ghé nhà anh Binh ăn sáng với anh em chúng tôi, có khi cả buổi chiều nữa, qua đó để nắm bắt diễn biến tình hình... Sáng hôm nay trong bữa ăn sáng cũng vậy, mặc cho anh chị Binh thao thao bất tuyệt bàn về chuyện Đại Tướng Minh nhất định khăng khăng không chịu ra lãnh trách nhiệm nữa, bất kể bao nhiêu người đến thuyết phục. Ông Đỗ Sinh Tứ tay vẫn cầm quyển sách tiếng Pháp, miệng cứ lẩm bẩm đọc, rồi bất chợt lại nói cho mọi người biết là theo bí mật Fatima, sắp sửa sẽ có hiện tượng tối thui 3 ngày 3 đêm, đó là điềm sắp tận thế... mọi người phải dọn mình ăn năn sám hối...
        Ông Đỗ Sinh Tứ, anh Nguyễn Văn Binh và tôi. Cả ba anh em, một già, một xồn xồn và một trẻ đã tự hứa với nhau là, nếu có một việc gì quan trọng mà cần phải đi đến một quyết định, trong trường hợp nếu vắng một người mà hai người kia đã cùng quyết định thì người thứ ba vắng mặt cũng phải chấp nhận. Đó là lý do tại sao tôi phải đồng ý tham dự cuộc đảo chánh Cố TT Nguyễn Văn Thiệu vào đầu tháng 4 năm 1975. Hai vị này đã quyết định vào buổi họp ban tối khi tôi trở về nhà thăm vợ con sau một tuần lễ vắng nhà mà vợ vừa mới sinh được hai tuần.
        Ăn sáng xong, má anh Binh đi vào phòng nghỉ, phòng ăn còn lại chỉ còn 3 anh em chúng tôi và chị Binh. Anh Binh bắt đầu câu chuyện một cách nghiêm nghị: "Như cuộc họp tối hôm kia (22-04-1975) tại nhà Đại Tướng, Trung Tướng Trần Văn Đôn đã trình bày về khả năng tái phối trí quân đội, tình trạng các kho dự trữ vũ khí của mình... và tình hình hàng chục sư đoàn CSBV đang bao vây Sàigòn, cũng như mấy chục ngàn quả pháo 130 ly, 222 ly mà chúng đang chĩa vào thành phố mà anh em đã biết. Đó là lý do chính mà Đại Tướng sợ không dám nhận nữa. Đêm hôm qua, Đại Tướng cho biết: Đại Sứ Mérillon của Pháp cho biết là Ngoại Trưởng Sullivan của Ông ta vừa mới điện cho biết là phía bên kia họ chỉ chịu thương thuyết hay nói chuyện với chính phủ không phải là của Nguyễn Văn Thiệu, mà cụ Hương thì họ không chịu, vì chúng cho rằng đó là chính phủ không Thiệu mà có Thiệu. Ông Mérillon nói rằng họ ám chỉ là họ chỉ thương thuyết với Đại Tướng thôi và yêu cầu Đại Tướng ra nhận trách nhiệm, nhưng mà Đại Tướng thì nhất định không nhận nữa..."
        Ông Đỗ Sinh Tứ nói ngay: "Tôi không tin được mấy thằng cộng sản, bọn chúng chỉ lươn lẹo rồi đánh lừa thôi. Không có thương thuyết hay hội họp gì đâu, ai lên rồi thì chúng cũng sẽ đánh đến cùng thôi. Đừng có bao giờ tin mấy thằng cộng sản."
        "Nhưng bây giờ mình phải có cách chớ. Nếu cứ để như thế này dù Cụ Hương có hô hào tử thủ đến cùng thì có còn gì đâu để mà đánh, quân đội, súng đạn và sự hỗn loạn của dân đang kéo về thành phố? Cuối cùng thì thành phố Sàigòn cũng tan nát và dân chúng cũng sẽ chết và CS nó vẫn chiếm được... Thà rằng chúng ta thuyết phục Đại Tướng ra nhận trách nhiệm, hy vọng nếu chúng chấp nhận nói chuyện, thương thuyết thì mình cũng có thể kéo dài thời gian được vài ba tuần hay một hai tháng để tái phố trí hay hay về Miền Tây tử thủ..." Anh Binh nói.
        "Không bao giờ thằng cộng sản nó họp hành hay thương thuyết gì với chúng ta đâu khi chúng đang ở thế thượng phong, anh em cứ tin tôi đi." Ông Tứ nhấn mạnh.
        "Nhưng dù sao Đại Tướng đứng ra cũng còn có một chút hy vọng, còn hơn là không còn gì cả.." Anh Binh cố tuyết phục tiếp.
        Ông Đỗ Sinh Tứ ậm ự rồi thủng thẳng nói: "Thì... cũng không biết làm sao bây giờ? Mà Ông Minh Ông ấy cũng khôn đấy, đâu có ai dại gì mà ra ôm lúc này?
        Anh Binh nghe thấy ông Tứ có vẻ dịu giọng như vậy liền nói tiếp: "Rất nhiều người đã đến thuyết phục Đại Tướng, các đảng phái, tôn giáo, dân biểu, nghị sĩ... nhưng Đại Tướng nhất định không chịu nữa. Anh em họ nói với tui là chỉ có chú Toàn, chú Toàn nói may ra Đại Tướng nghe, anh em họ nói rằng Đại Tướng chỉ nghe chú Toàn thôi, tui đề nghị chú Toàn đến thuyết phục Đại Tướng chắc chắn là Đại Tướng nghe thôi.."
        Chị Binh nghe vậy liền nhảy vào góp ý: "Đúng đấy, anh em họ nói chỉ có chú Toàn nói may ra Đại Tướng mới nghe, chị đề nghị chú Toàn nên nói gặp và chuyện với Đại Tướng đi."
        Tôi ngồi im lặng một lát rồi nói: "Làm sao mà các anh chị lại tin là em có thể thuyết phục được Đại Tướng?"
        Bỗng ông Đỗ Sinh Tứ nói: "Ừ... thì Toàn em cứ thử nói chuyện với Đại Tướng xem sao? May ra có gỡ gạc được gì chăng? Chứ cứ như tôi thì chẳng còn gì cả mà hy vọng..."
        Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói: "Các anh cho em suy nghĩ một chút, vẫn đề này khó khăn quá, nó vượt quá khả năng của em."
        "Anh em họ tin là chú Toàn nói Đại Tướng sẽ nghe, anh cũng tin như vậy." Anh Binh nói. Chị Binh nhảy vào nói tiếp: "Thực đó chú Toàn, chị cũng tin như vậy. Em cố gắng gặp và nói chuyện với Đại tướng đi... tình hình nguy ngập lắm rồi..."
        "Xin cho em thời gian suy nghĩ”. Tôi thong thả trả lời.
        Sau đó ông Đỗ Sinh Tứ ra về, anh Binh nói: "Anh vào gặp Đại Tướng một chút, Toàn ở nhà suy nghĩ đi, anh vô trong đó rồi về ngay."
        Thế là cả hai vị đều ra đi, còn lại tôi và chị Binh, chị cố thuyết phục tôi thêm một hồi nữa rồi cũng đi luôn. Trở vào phòng nằm suy nghĩ: bây giờ mà chạy xe đến gặp anh Tuyến (Bác sĩ Trần Kim Tuyến) thì không biết đến bao giờ mới quay trở lại được. Do dự, tính toán một lúc, sau đó tôi vội điện thoại cho cụ Trương Vĩnh Lễ, hỏi thăm tình hình lúc này ra sao rồi thì cụ cho biết: "Toàn không có gì mà phải lo, chính phủ Pháp họ ra lệnh cho kiều dân của họ không có phải di tản gì hết, toàn bộ tài sản của chính phủ Pháp đã giao cho tôi quản lý, không có gì đâu mà Toàn phải lo..."
        Tôi hỏi về giải pháp Dương Văn Minh thì Cụ nói rằng: "Người Pháp đang đứng ra vận động để đi đến thương thuyết và ngưng bắn, thì Đại Tướng Minh có lên thì cũng đúng thôi".
        Nói chuyện với cụ Trương Vĩnh Lễ xong, tôi quyết định tham khảo ý kiến anh Tuyến qua điện thoại nhà của anh Binh, vì cả nhà đều đi vắng hết chỉ còn má anh Binh là ở trong phòng. Tôi xuống nhà ăn dùng điện thoại tại đây. Sau khi nghe anh Tuyến cho biết về tình hình vô cùng nguy ngập, anh yêu cầu tôi phải lo đi gấp kẻo không kịp. Tôi nói tôi chưa thấy cần phải đi ngay bây giờ và trình bày cho anh Tuyến biết về tình hình hiện tại bên Đại Tướng Dương Văn Minh, cũng như những yêu cầu mà anh em họ đề nghị tôi giúp. Anh Tuyến nói: "Không còn gì nữa, em phải đi ngay với Cha Trần Văn Khoát ra Phú Quốc trước đi, Cha Khoát sẽ lo phương tiện cho em và vợ con ra đó trước..."
        "Thế còn đề nghị của anh em nhờ em vô gặp tướng Minh?" Tôi hỏi.
        Suy nghĩ một lúc rồi anh Tuyến nói: "Không còn gì nữa đâu em! Còn... em muốn thử thì cứ thử xem sao? Chứ anh thấy là mọi chuyện đã xong hết rồi, đi ngay đi kẻo không kịp, không còn hy vọng gì đâu!"
        Đang khi tôi mải mê nói chuyện với anh Tuyến như vậy thì anh Binh bất thình lình đã về nhà từ bao giờ và đang đứng ở sau lưng tôi nghe tôi nói chuyện với anh Tuyến. Tôi không hiểu anh Binh đã về lúc nào và đã nghe được những gì tôi trao đổi với anh Tuyến? Bỗng tôi nghe anh Binh hỏi sau khi tôi cúp điện thoại: "Bộ em nói chuyện với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến hả? Em quen Bác Sĩ Tuyến hả?"
Nghe anh Binh bất thình lình hỏi làm tôi giật mình, thơ thẩn đến mất hồn, như kẻ ăn vụng bị bắt quả tang, rồi tôi vội vã trả lời: "Dạ..."
        Anh Binh nhìn tôi với cặp mắt khó chịu và có vẻ nghi ngờ. Lát sau anh lấy lại bình tĩnh rồi lại hỏi: "Em suy nghĩ xong chưa? Anh em nói với anh là cố thuyết phục em giúp cho, ai ai cũng cho rằng chỉ có em nói Đại Tướng mới nghe thôi. Em ráng giúp đi Toàn, không còn thời gian nữa..."
        Tôi đứng suy nghĩ không biết phải trả lời như thế nào. Lời anh Tuyến cứ văng vẳng bên tai là phải đi gấp thôi, rồi cảnh Cha Khoát đến đón gia đình tôi mà không có tôi ở nhà thì làm sao vợ con tôi dám ra đi. Phân vân do dự không biết phải làm sao. Bỗng tôi hỏi lại anh Binh: "Anh còn nhớ hôm rồi khi ông Đỗ Sinh Tứ hỏi ông Mérillon nếu Cộng Sản nó nuốt lời hứa và cứ tiếp tục tấn công thì nước Pháp sẽ làm gì không?
        Anh Binh vội trả lời: "Anh nhớ chứ, ông Mérillon nói Nước Pháp sẽ can thiệp... Thôi em ráng giúp anh em đi."
        Bị anh Binh hối thúc và năn nỉ, cuối cùng tôi nói: "Được, em đồng ý nhưng có điều kiện."
        "Điều kiện gì em cứ nói, điều kiện làm được anh làm ngay." Anh Binh vội trả lời.
        "Điều kiện của em cũng dễ thôi, em yêu cầu cho em đem theo hai người bạn để nó đi theo làm chứng cho cuộc nói chuyện của em hôm nay." Tôi nói.
        Anh Binh vội trả lời: "Được, mấy người cũng được chứ đừng nói chi có hai người. Vậy hai người bạn của em ở đâu anh đến đó đón ngay?"
        "Không sao, một người ở dòng Chúa Cứu Thế, tên Trần Công Thạch, một người ở dòng Phanxico, cầu Dakao. Để em gọi điện thoại cho họ đến cũng được. Vậy mấy giờ mình có mặt?" Tôi trả lời.
        "Để anh gọi điện trình cho Đại Tướng rồi anh nói cho em hay ngay" Anh Binh vội trả lời.
        Thế rồi anh quay ra gọi điện thoại cho Đại Tướng Minh. Nói chuyện xong anh quay qua nói với tôi: "Khoảng 1 giờ hay hơn một chút được không Toàn?"
        "Dạ được". Tôi trả lời.
        Lúc này là khoảng 11 giờ sáng ngày 24 tháng 4. Tôi gọi điện thoại cho 2 người bạn và nói rằng hai anh đến nhà anh Nguyễn Văn Binh để cùng đi với tôi đến gặp một người rất quan trọng, đến rồi tôi sẽ cho biết sau. Phải đến khoảng gần 12 giờ hai anh bạn tôi mới đến. Chúng tôi mời vào nhà, anh Binh trình bày cho hai anh nghe về tình hình đang diễn biến vô cùng phức tạp và nguy ngập: "Bây giờ không còn cách nào khác là thuyết phục Đại Tướng Minh đứng ra nhận trách nhiệm, hy vọng còn câu giờ được chút nào hay chút ấy. Anh em có nhờ anh nói chú Toàn vào thuyết phục Đại tướng, chú Toàn đề nghị phải có hai em cùng đi chú ấy mới chịu đi."
        "Nhưng tụi em đâu có biết nói như thế nào". Trần Công Thạch nói.
        "Không sao! Hai ông cứ đi với tôi, hai ông không phải nói gì hết, cứ ngồi nghe tôi nói cũng được, hoặc sau đó muốn nói thêm vào cũng được. Tôi cần hai ông đi với tôi để làm chứng cho cuộc nói chuyện của chúng ta thôi, đây là một cuộc nói chuyện lịch sử." Tôi nói tiếp.
        "Được, nếu anh Toàn nói vậy thì tụi tôi sẵn sàng thôi. Bao giờ thì đi?" Trần công Thạch hỏi.
        "Anh có hẹn với Đại Tướng vào khoảng 1 giờ." Anh Binh trả lời.
        Ngồi nói chuyện một chút rồi anh Binh kêu chúng tôi chuẩn bị ra xe đi. Chúng tôi đến Dinh Hoa Lan khoảng gần 1 giờ trưa, phải khó khăn lắm chiếc xe mới đi vào được sân, vì người ta trải chiếu, tấm nylon nằm chật ních hai bên lề của đường đi vào cửa sau. Vừa đến sân, tôi nhìn thấy Tướng Nguyễn Khắc Bình mặc bộ đồ rằn ri, hai tay đang khoanh tròn trước ngực đang đi đi lại lại quanh sân. Tôi vội hỏi anh Binh: "Ông Tướng Bình vô đây làm gì vậy anh?"
        "Thì em biết rồi đó, chắc là ông đó vô xin Đại Tướng, nếu có gì thì cho ông ấy tiếp tục làm Tư Lệnh Cảnh Sát." Anh Binh trả lời.
        Đậu xe xong, anh Binh dẫn chúng tôi vào đứng chờ ở cửa ngoài phòng khách, dặn chúng tôi ở đây để anh ấy vào trình Đại Tướng. Vừa mở cửa bước vào, tôi nghe anh Binh nói: "Chào Đại Tướng, chú Toàn và hai người bạn của chú Toàn đã đến."
        "Mời mấy ẻm vô." Tướng Minh nói.
        Thì ra Tướng Minh đang ngồi sẵn ngoài phòng khách chờ chúng tôi. Anh Binh vội đi ra nói: "Đại Tướng mời các em vào."
        "Dạ." Chúng tôi trả lời.
        Chúng tôi vừa bước vào phòng khách thì đã thấy Đại Tướng đang ngồi ở ghế phía bên trái, ông vội đứng dậy đi ra bắt tay chúng tôi. Tôi chào Đại Tướng và lần lượt giới thiệu hai người bạn của tôi với Đại Tướng. Đại Tướng mời chúng tôi ngồi và nhìn tôi rồi hỏi ngay: "Sao? Hôm nay em muốn nói gì với "Goa"?"
        "Tình hình bây giờ ra sao rồi Đại tướng? Sao mấy hôm rồi Đại Tướng vận động mọi người ủng hộ Đại Tướng, bây giờ Đại Tướng lại thôi không chịu nhận nữa là thế nào?" Tôi hỏi.
        Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: "Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối của quân đội... quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí, súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàigòn, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi... Tình hình như vậy em bảo làm sao mà "Goa" dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?"
        "Thế Đại Tướng có thương nước không? Tôi hỏi.
        "Tại sao em lại hỏi "Goa" như vậy? "Goa" phải thương chứ!" Đại Tướng trả lời.
        "Đại Tướng có thương dân không Đại Tướng? Tôi hỏi tiếp.
        "Goa" phải thương chứ em! Sao em cứ lại hỏi "Goa" như vậy?" Đại Tướng trả lời.
        "Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa... thì Đại Tướng đâu có thương dân thương nước, Đại Tướng đâu có phải vì dân, vì nước... mà Đại tướng chỉ vì Đại Tướng... còn nếu nó ngon lành mà Đại Tướng nhận thì có còn gì để nói..." Tôi nói lại.
        "Người Mỹ họ đã khép lại chiến tranh Việt Nam rồi. Ông Mérillon mặc dù có hứa là nước Pháp sẽ giúp làm trung gian để có một cuộc thương lượng... nhưng mình không còn gì hết em ạ”. Đại Tướng thong thả nói tiếp.
        "Thưa Đại Tướng, Đại Tướng phải nghĩ lại, "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", dù Đại Tướng có là Tổng Thống đi nữa thì dân phải là trên hết, rồi mới đến đất nước, và cuối cùng mới là Đại Tướng, là Tổng Thống hay là Vua. Bây giờ nếu Đại Tướng cho rằng không ăn được cái gì nữa cả, không làm được cái gì nữa cả cho nên Đại Tướng không nhận, như vậy đâu có cái gì chứng minh là Đại Tướng thương dân thương nước hay Đại Tướng vì dân vì nước... Bây giờ nếu còn có một tia hy vọng nào đó mà có thể thương thuyết được với phía bên kia để mà kéo dài thời gian ra, dù là được một hai tháng hay một hai tuần thì càng tốt, còn nếu lâu hơn thì lại càng tốt hơn nữa... nếu Đại Tướng thương dân, thương nước như Đại Tướng nói thì Đại Tướng phải chấp nhận hy sinh để có thể nói chuyện được với phia bên kia, để thương thuyết, để kéo dài dù chỉ là vài tuần hay thậm chí vài ba ngày. Trong thời gian vài ngày hay vài tuần đó chúng ta cũng có thể chỉnh đốn lại quân đội, tái phối trí lại những cánh quân đang bị tản mát... còn hơn là chúng ta cứ để như thế này, cuối cùng rồi chúng ta cũng mất, mà Sàigòn thì tan nát và dân chúng thì chết chóc..."
        Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói: "Bây giờ em nói sao? Em nói "Goa" phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu "Goa" ôm, "Goa" ôm rồi "Goa" chết một mình sao?"
        "Thưa Đại Tướng, nếu vì dân vì nước mà phải chết thì cũng đành chấp nhận thôi. Còn nếu chết mà không phải vì dân vì nước thì đâu có gì để nói nữa." Tôi cũng nhìn thẳng vào Đại Tướng mà nói. 
Nghe tôi nói vậy, Đại Tướng ngồi thẩn người ra, nhìn xuống đất và im lặng. Một trong hai anh bạn tôi lại nói thêm vào: "Thôi Đại Tướng ạ, Đại Tướng nên hy sinh thôi Đại Tướng, Đại Tướng nhận may ra còn có cơ hội, chứ tình hình như thế này thì không còn tí hy vọng nào cả. Đại Tướng nhận, may ra ông Mérillon và nước Pháp họ còn có thể giúp được gì như họ đã hứa với Đại Tướng, hy vọng sẽ có thể thương thuyết, như vậy còn có thể kéo dài được vài ba ngày vài ba tuần... Như thế thì chúng ta còn có thời gian để chấn chỉnh lại hay tái phối trí lại quân đội.."
        "Nhưng nếu mà không thương thuyết được, tụi nó đánh tới luôn thì các em biểu "Goa" phải làm sao? Đại Tướng hỏi lại.
        "Thì mình phải chấp nhận hy sinh thôi chứ Đại Tướng, mình đâu còn con đường nào khác bây giờ, bây giờ mình còn nước mình phải tát... và cái quan trọng nhất là làm thế nào để thành phố này không bị tan nát và dân Sàigòn này không phải chết đã... Bây giờ Đại Tướng không nhận mình cũng chết, cho nên chỉ còn cách là Đại Tướng cứ nhận đi, bây giờ họ không chịu nói chuyện với ai cả... họ chỉ chấp nhận nói chuyện với Đại Tướng. Đại Tướng là người duy nhất mà họ có thể nói chuyện, còn nếu họ nuốt lời hứa mà không có nói chuyện hay thương thuyết gì cả thì mình cũng đành chịu thôi." Tôi nói.
        Đại Tướng lại nói lại: "Nó là cái vạc dầu đang sôi, vậy mà em biểu "Goa" ôm, "Goa" ôm rồi "Goa" chết một mình sao em?"
        "Nếu phải chết để dân mình được sống, để thành phố này không tan nát thì chúng ta chấp nhận cái chết đó Đại Tướng ạ." Tôi nói.
        Đại Tướng ngồi im lặng suy nghĩ một lúc rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt tôi và nói: "Nếu "Goa" nhận em ủng hộ "Goa"?"
        "Em sẵn sàng ủng hộ Đại Tướng". Tôi trả lời.
        "Nếu em ủng hộ "Goa" thì em ra văn phòng báo chí em họp báo tuyên bố ủng hộ "Goa" đi". Đại Tướng nói.
        "Em sẽ làm điều đó cho Đại Tướng." Tôi trả lời.
        Thế là cả ba anh em chúng tôi đứng dậy từ giã, Đại Tướng đứng dậy một tay thì bắt tay tôi, một tay thì vỗ vai tôi nói: "Em hứa em ủng hộ "Goa" thì em cũng phải làm chứng cho "Goa" nhe!"
        Tôi vội trả lời: "Chúng em sẽ làm chứng cho Đại Tướng, cả ba đứa tụi em sẽ làm chứng cho Đại Tướng mà... Đó là lý do tại sao em nói với anh Nguyễn Văn Binh là khi em vô nói chuyện với Đại Tướng phải cho em đem theo hai người bạn của em, để họ còn làm chứng nữa chứ."
        Tôi trả lời Đại Tướng như vậy, Đại Tướng nhìn tôi và khẽ cười, đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ấy cười kể từ khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện đến bây giờ. Sau đó Đại Tướng đưa chúng tôi ra sân và cựu Dân biểu Dương Văn Ba mời chúng tôi ra Văn Phòng Báo Chí để tổ chức cuộc họp báo. Tại Văn Phòng Báo Chí hầu như chẳng có ký giả nào của các báo Việt ngữ, bởi vì vào giờ này hầu hết báo chí Việt ngữ, các cơ quan thông tấn, báo chí và đài truyền hình ngoại quốc đều đã kéo qua giáo xứ Lộc Hưng, Chí Hòa để theo dõi buổi meeting của Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ với bà con tại hạt Chí Hoà. Ngó trước ngó sau, chúng tôi chỉ thấy có ông Hồng Sơn Đông, chủ nhiệm báo Điện Tín và chị Trùng Dương, chủ nhiện báo Sóng Thần... Trước mặt chúng tôi hầu như toàn là các nhà báo Pháp. Cả ba anh em chúng tôi đều không rành tiếng Pháp, tôi vội nói với cựu dân biểu Dương Văn Ba là tụi tôi không rành tiếng Pháp xin anh thông dịch dùm, anh Dương Văn Ba vui vẻ nhận lời ngay.
        Mở đầu cuộc họp báo, anh Dương Văn Ba giới thiệu chúng tôi với báo chí và thông báo là chúng tôi vừa có cuộc tiếp xúc với Đại Tướng Dương Văn Minh cách đây mươi phút. Chúng tôi là những người trẻ đến vận động Đại Tướng hãy can đảm đứng ra gánh vác trách nhiệm trước lịch sử và đã được Đại Tưóng nhận lời.
        Các kỷ giả của Pháp đặt khá nhiều câu hỏi, nhưng có vài câu quan trọng nhất là: "Các ông có biết là Sàigòn đang bị bao vây và sẽ bị tấn công bất cứ lúc nào không?"
        "Chúng tôi biết rất rõ về tình hình hiện tại". Tôi trả lời.
        Một ký giả khác lại đạt câu hỏi: "Các ông căn cứ vào đâu và có hy vọng gì ở Đại Tướng Minh khi ủng hộ và yêu cầu Đại Tướng ra lãnh trách nhiệm?"
        "Chúng tôi không còn con đường nào khác." Tu sĩ Trần Công Thạch trả lời.
        Một người khác lại hỏi: "Trong trường hợp phía Cộng Sản họ không thương thuyết mà chỉ có tấn công thì lúc đó các ông làm gì? Các ông tiếp tục chiến đấu hay bỏ chạy?"
        "Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho dù khi ấy chỉ còn một mình tôi." Tôi trả lời.
        Cuộc họp báo diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ chừng chưa đầy ba mươi phút. Sau đó chúng tôi tuyên bố chấm dứt và lên xe ra về. Từ hôm đó, chiều nào tôi cũng vào nhà Tướng Minh với anh Nguyễn Văn Binh cho đến tối, thậm chí có hôm tới khuya, một hai giờ sáng mới ra về.
        Đến trưa ngày 28 tháng 4, anh Binh chạy về nhà nói với tôi: "Đại Tướng nói anh về chở em vào trong Dinh Độc Lập với Đại Tướng."
        "Em không vô trong ấy làm gì anh ạ, cứ để Đại Tướng và các anh làm việc đi, đã có anh ở bên cạnh rồi, có gì anh em mình thông báo và trao đổi với nhau." Tôi trả lời.
        Hôm đó anh Binh gọi điện thoại về nhà đòi đón tôi tổng cộng là ba lần, nhưng tôi từ chối nhất định không chịu vào. Từ trưa hôm ấy, anh Binh ở lại trong Dinh Độc Lập. Ngày hôm sau anh chỉ về thăm nhà, gặp tôi và ông Đỗ Sinh tứ một lần rồi lại vào trong đó ở cho đến khi cộng quân chiếm Dinh Độc Lập và bắt giữ toàn bộ mọi người đang ở trong Dinh: Từ Đại Tướng Dương Văn Minh, Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền, Luật sư Vũ Văn Mẫu, Dân biểu Hồ Văn Minh, Lý Quí Chung, Nguyễn Văn Binh...
        Khoảng ba bốn ngày sau, anh Binh được thả ra từ Dinh Độc Lập. Về đến nhà anh kể cho tôi, ông Đỗ Sinh Tứ, má anh và chị Binh nghe về mấy ngày bị bắt ở trong Dinh Độc Lập như thế nào. Từ việc ai viết bài cho Đại Tướng đọc trên đài phát thanh, việc tụi cộng sản nó bắt tất cả phải đứng úp mặt vào tường, giơ tay lên và đếm số liên tục, từ Đại Tướng Dương Văn Minh là số 1 đến thứ mười mấy, rồi lại bắt đầu từ Đại Tướng... Cảnh bội đội cộng sản hoạnh họe, lên đạn khi chúng phát giác ra xe thu hình của đài truyền hình số 9 đang chĩa ống thu hình vào trong dinh, mà chúng cho là giờ này còn ngoan cố, tiếp tục chĩa súng điện tử vào Dinh Độc Lập. Rồi cảnh tổng đài điện thoại mấy trăm đường line tiếp tục chớp đèn, cũng như ở khắp nơi gọi về... kêu inh ỏi mà chúng cho rằng vẫn còn ngoan cố liên lạc để kêu tiếp viện... nhiều chuyện bi thương cười ra nước mắt vào giờ phút đen tối nhất của lịch sử.
        Khi ra tới hải ngoại, tôi có ý định đi tìm Đại Tướng thăm hỏi, nhưng nghe nói Đại Tướng ở bên Pháp và muốn xa tránh tất cả mọi người, tôi cũng không tìm đâu ra địa chỉ để đi. Khi nghe tin Đại Tướng qua đời thì mới biết là Đại Tướng đã qua Mỹ ở. Tôi muốn gặp Đại Tướng để hỏi thêm một số việc và giải thích tại sao Đại Tướng kêu tôi vào mà tôi không vào, và nếu tôi vào thì trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó tôi có giúp gì được Đại Tướng được hay không? Khuyên Đại Tướng tự sát thì chắc chắn tôi không làm được vì tôi là người Công Giáo, không được khuyến khích ai tự tử. Còn nếu bảo Đại Tướng chạy về miền Tây liệu lúc ấy chúng ta còn có thể làm được như vậy không? Nhất là tôi có đủ bản lãnh để thuyết phục được Luật sư Vũ Văn Mẫu, Dân biểu Lý Quí Chung... rồi tên tướng cộng sản nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh nữa, hắn có để cho chúng ta làm như vậy không? Trong khi đó vào những giờ phút cuối, tình hình đã vô cùng phức tạp. Mời quí vị theo dõi vài trích đoạn về bài viết của Hoàng Khởi Phong nói về: "Trận đánh cuối cùng cùng của Hổ Xám LĐ 81 - Biệt Cách Nhảy Dù" để có một cái nhìn thực tế vào thời điểm đen tối đó:

         ... "Đêm 26 Tháng Tư qua đi trong yên tĩnh, trọn buổi sáng 27, Thiếu Tá Phạm Châu Tài lo bố trí quân tại những địa điểm cần thiết, để có thể chận đánh, tiêu diệt những chiến xa mở đường của địch quân. Sau khi rải quân xong, Thiếu Tá Phạm Châu Tài được lệnh lên trình diện Trung TướngNguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Độ. Từ cổng ngoài của Biệt Khu Thủ Đô, một chiếc xe tuần tiễu Quân Cảnh dẫn đường cho xe của Thiếu Tá Tài đến văn phòng của ông tư lệnh. Trong lúc này Tướng Nguyễn Văn Minh đang bàn thảo với Tướng Đỗ Kiến Nhiễu, chung quanh hai vị tướng này có vài đại tá. Nhìn thấy Thiếu Tá Tài đi cùng người lính Quân Cảnh, tướng Minh đứng dậy tiến hẳn ra bắt tay rất niềm nở, và nói với Thiếu Tá Tài: "Em về đúng lúc lắm". Sau một cuộc tiếp xúc ngắn không đầy mười phút, Tướng Minh yêu cầu Thiếu Tá Tài qua thăm phối hợp với Đại Tá Châu Văn Tiên - Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhiều năm sau này Thiếu Tá Tài được biết, ngay sau buổi hội kiến ngắn ngủi đó (ngày 27 Tháng Tư), Trung Tướng Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô biến mất". 
.... 
        Trong buổi sáng 28 Tháng Tư tại Bộ Tổng Tham Mưu, văn phòng của Đại Tướng Cao Văn Viên trống trơn. Các phòng, ban của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ vài tháng trước nhộn nhịp kẻ ra người vào, quân nhân các cấp ra vào áo quần thẳng tắp, giờ đây sáng ngày 28, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy cơ quan đầu não của Quân Lực VNCH vắng lặng như tờ. Ông chua chát nhận chân được thế nào là một đoàn quân không có tướng cầm đầu. Ông nghiệm lại từ lúc về trình diện tăng phái về trấn cửa cho Bộ Tổng Tham Mưu, được Đại Tá Tòng - Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh, tiếp vào lúc xế chiều của ngày 26 Tháng Tư, tới bây giờ là 10 giờ sáng của ngày 28 Tháng Tư, chưa một lần nào Thiếu Tá Tài nhìn thấy bóng dáng ông Đại Tướng Cao Văn Viên. Không hiểu trong những giờ phút thập tử nhất sinh như thế này, ông Đại tướng ở đâu, làm gì. Ngay cả ông Đại Tá Tòng cũng biến mất không thấy tăm hơi. Trong sân Bộ Tổng Tham Mưu, quân nhân các cấp người chạy lên, kẻ chạy xuống như là những quân đèn cù. Xe Jeep, xe Dodge phun khói mờ trời đất. Nhiều chiếc xe còn kéo theo cả móc hậu, bên trong đầy đồ đạc, dụng cụ. Ai nấy đều như mê sảng.
        Trong hoàn cảnh đó, Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho dù muốn xin một cái lệnh của cấp trên, cũng sẽ không tìm ra một sĩ quan cao cấp nào để ban hành lệnh. 
.... 
        Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư, Tướng Vĩnh Lộc và một số tướng lãnh hội họp với nhau ngay tại phòng khánh tiết của Tổng Tham Mưu Trưởng. Buổi họp giống như một buổi tiếp tân nhiều hơn là một cuộc họp trong tình thế cực kỳ khẩn trương. Hầu như không một vị sĩ quan nào ngồi trên ghế, có tới vài chục vị đứng quây quần với nhau thành nhiều nhóm. Thiếu Tá Phạm Châu Tài được gọi lên tương kiến trong buổi họp kỳ lạ này. Cùng đi với Thiếu Tá Tài là bốn người lính cận vệ, và cả Thiếu Tá Tài ai nấy đều trang bị vũ khí khắp người. Thiếu Tá Tài được giới thiệu như là một người hùng.
        Ông ghi nhận được trong buổi họp này ngoài Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham Mưu Trưởng còn có sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Hữu CóChuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, và một chuẩn tướng nữa có bảng tên là Hỷ (không có họ) và sau cùng có chừng mười mấy vị phần lớn là Đại tá. Sau khi được các sĩ quan cao cấp bắt tay khích lệ, Thiếu Tá Tài được Trung Tướng Có hỏi thăm về tình trạng đơn vị, và nhắn nhủ:
        - Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu cho tới sáng ngày mai. Ráng giữ nguyên vẹn cho tới ngày mai. Đã có giải pháp.
        Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngửng mặt lên nhìn thẳng vào mắt các tướng lãnh trong phòng họp rồi bằng một thái độ quả quyết, một giọng nói tự tin trả lời cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có:
        - Tôi xin cam đoan với quý vị tướng lãnh và các vị sĩ quan trong phòng họp này, là trong đêm nay sẽ không có một con kiến, một con ruồi nào lọt được vào Bộ Tổng Tham Mưu chứ đừng nói tới một thằng VC.
        Kế đó Trung Tướng Có hỏi Thiếu Tá Tài có cần ông giúp đỡ gì không. Thiếu Tá Tài nhân đó xin rút một biệt đội của ông đang phải nằm án ngữ tại Lục Quân Công Xưởng về, để tăng cường cho quân số phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu, vì cả đơn vị có một ngàn người còn phải chia mất một phần tư lực lượng, bị xé quá mỏng không có được một đại đội làm tuyến phòng thủ cuối cùng trong Bộ Tổng Tham Mưu.
        Nghe vậy Trung Tướng Có bốc điện thoại gọi và cho kết quả ngay. Buổi họp cấp kỳ tại Bộ Tổng Tham Mưu diễn ra không lâu, sau khi các sĩ quan cao cấp rời khỏi phòng khánh tiết, cái không khí đìu hiu của buổi sáng lại diễn ra. Tuy nhiên buổi chiều đó biệt đội phòng thủ tại Lục Quân Công Xưởng được trả về cho Thiếu Tá Tài.
        Đêm 29 Tháng Tư súng nổ ở nhiều nơi vọng về chỗ đóng quân của Thiếu Tá Tài. Binh sĩ dưới quyền ông chạm súng lẻ tẻ với địch ở nhiều nơi, nhưng các đứa con được bung ra không bị một thiệt hại nhỏ nhoi nào. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cảm nhận được một điều là tinh thần chiến đấu cũng như hàng ngũ của đơn vị ông vô cùng vững chãi. Cho dù trên cái vòm chỉ huy của quân đội, các ngôi sao cứ tuần tự băng trong bóng tối của trận chiến sau cùng. Ông vững lòng với binh sĩ thuộc hạ, không hề có một ổ kháng cự nào bị bỏ ngỏ. Đêm 29 Tháng Tư năm 1975, có thể là một đêm dài vô tận với hầu hết mọi người quân như dân, ai nấy đều co mình lại chờ sáng, thậm chí mắt căng ra không ngủ được, nhưng với Thiếu Tá Phạm Châu Tài thì khác, ngoại trừ những lúc phải đi kiểm soát binh sĩ dưới quyền, ngoại trừ những lúc phải chỉ huy, ông đã ngủ rất ngon trong những giờ trống. Sở dĩ Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngủ ngon, vì ông đã xác định hẳn cho cá nhân mình cũng như toàn đơn vị một ý chí duy nhất: Giữ cho được Bộ Tổng Tham Mưu không phải chỉ một đêm nay, mà là nhiều đêm sau nếu cần, cho tới khi nào có được giải pháp cuối cùng cho miền Nam. 
.... 
        Vào khoảng hơn 9 giờ sáng của ngày 30 Tháng Tư 1975, qua tần số của máy truyền tin, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được lệnh của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu ngưng bắn. Ông đã khước từ tuân hành lệnh này, và trả lời cho vị sĩ quan này là ông chỉ nhận lệnh trực tiếp với ông Tổng Tham Mưu Trưởng mà thôi. Những người lính Biệt Cách Dù vẫn giữ nguyên vị trí phòng thủ trong vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.
        Vào khoảng mười giờ, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nghe trên đài phát thanh truyền đi lệnh của Đại Tướng Dương Văn Minh, yêu cầu tất cả quân nhân các cấp của Quân Lực VNCH buông súng. Thiếu Tá Tài bỏ phòng tuyến trở vào một văn phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, đích thân gọi điện thoại lên Dinh Độc Lập và được Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tự nhận là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho biết là bây giờ ông muốn được nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh, vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội.
        Khoảng chừng 15 phút chờ đợi dài như một thế kỷ, bên kia đâu dây điện thoại mới nghe giọng nói của Đại Tướng Dương Văn Minh cất lên:
      - Đại Tướng Dương Văn Minh tôi nghe.
     - Thưa đại tướng, tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang chỉ huy Biệt Kích Dù phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được ủy thác phòng thủ tại đây cho tới khi có giải pháp cuối cùng. Cách đây một giờ chúng tôi được lệnh ngưng bắn gọi qua máy siêu tần số, và vừa mới rồi được nghe lệnh của đại tướng trên đài phát thanh kêu gọi ngưng bắn. Chúng tôi xin hỏi lại cho rõ về ngưng bắn là thế nào?
        Sau một khắc ngần ngừ, Đại Tướng Minh nói:
        - Mình không còn một cái gì để đánh cả. Em chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia.
        - Thưa đại tướng, thế có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện.
        Đầu dây bên kia lại một phút im lặng nặng nề trôi qua, Thiếu Tá Tài nói tiếp vào điện thoại:
         - Thưa đại tướng, chúng tôi được lệnh là cố thủ tại đây, và từ sáng tới giờ chúng tôi đã ngăn chặn được các mũi tấn công của địch. Chúng tôi đã bắn cháy 6 chiếc xe tăng của CS trong khu vực này, mà không hề hấn gì cả. Thưa đại tướng, chúng ta không thể đầu hàng được. Công lao của Quân Lực VNCH trong bao nhiêu năm sẽ...
         - Tùy các em.
        - Thưa đại tướng, nếu đầu hàng đại tướng có bảo đảm cho sinh mạng của hai ngàn người đang tử thủ tại Bộ Tổng Tham Mưu không.
         Lại một phút nặng nề nữa trôi qua. Sau cùng Tướng Minh nói:
        - Xe tăng của địch quân sắp tiến vào đây. Tùy các em.
        Tôi mượn vài trích đoạn trên bài viết của Hoàng Khởi Phong về: "Trận đánh cuối cùng của Hổ Xám LĐ 81 - Biệt Cách Nhảy Dù” để kết thúc bài này.
        Nguyễn Đình Toàn

Tuesday, April 28, 2015

BBC Phỏng Vấn Giáo Sư Lê Xuân Khoa

 
Từ miền Nam California, ông Lê Xuân Khoa, cựu giáo sư Đại học John Hopkins, đã trao đổi với BBC một số vấn đề xung quanh cuộc chiến giữa hai miền nhân kỷ niệm 40 năm ngày 30/4.
BBC: Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu thì ngày 30/4 có ý nghĩa như thế nào trong tiến trình lịch sử của dân tộc? Đó là ngày Chiến thắng, ngày Quốc hận, ngày Thống nhất hay ngày đánh dấu sự chia rẽ sâu sắc của dân tộc không thể nào hàn gắn được?
GS Lê Xuân Khoa: Gọi là Ngày Chiến thắng hay Quốc hận là tùy theo đứng về phía thắng trận hay thua trận. Về phía thắng trận, càng ngày về sau chữ chiến thắng nó mất dần ý nghĩa đi. Ngay cả trong nội bộ phía thắng cũng thấy nó mất đi ý nghĩa. Tại vi sau khi thắng trận không bao lâu thì các lãnh đạo miền Bắc có sự bội ước với miền Nam, tức là bản chất giải phóng miền Nam. Thứ hai là họ áp dụng chế độ đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân. Có lẽ vì thế những năm sau này người ta dùng nhiều hơn từ Thống nhất.
Nhưng đối với người Việt ở hải ngoại, ngoài chữ Quốc hận thì phải có thêm một chữ ‘Ngày tìm tự do’ bởi vì đáng lẽ thống nhất lòng người mà người ta lại bỏ ra đi thì như vậy có sự chia rẽ nặng nề vấn đề dân tộc.
Chữ Quốc hận là đứng về phía cộng đồng hải ngoại. Lý tưởng mà nói hận thù cần phải xóa bỏ, cần phải quên đi. Là con người không ai muốn nuôi hận thù làm gì nhưng chữ Quốc hận đến giờ không thể bỏ được. Người ta muốn quên nhưng không bỏ được cho đến chừng nào có sự thay đổi trong nước tức là thật sự bảo vệ quyền lợi đất nước đối với Trung Quốc và đi vào con đường thật sự của dân, do dân, vì dân, thật sự dân chủ hóa đất nước. Như vậy sẽ hóa giải hận thù đi. Từ chỗ hóa giải hận thù chữ Quốc hận cũng bỏ được.
Trong tương lai hy vọng đến một ngày nào đó sẽ không còn dùng chữ Quốc hận nhưng cho đến ngày đó thì người ta còn đầy đủ lý do để dùng chữ Quốc hận.
BBC: Trong cuộc chiến, miền Bắc cho mình là chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng đất nước còn miền Nam cho rằng họ chiến đấu cho chính nghĩa tự do dân chủ của dân tộc vậy thì theo Giáo sư bên nào mới thật sự đại diện cho chính nghĩa của người Việt?
Chính nghĩa yêu nước, giải phóng đất nước của người cộng sản lúc ban đầu nó không còn nguyên như trước mà đi vào con đường cộng sản nên có sự xung đột ý thức hệ rõ ràng. Giáo sư Lê Xuân Khoa
GS Lê Xuân Khoa: Mỗi bên đều có chính nghĩa của mình. Theo tôi thì người Cộng sản cũng là người yêu nước lúc đầu khi chưa thành cộng sản. Những người đi tìm lý tưởng cộng sản đều là người yêu nước cả. Ông Hồ Chí Minh khám phá ra được Lênin viết về vấn đề giải phóng dân tộc thì cho rằng chủ nghĩa Lênin đem lại giải phóng cho dân tộc nên ông ấy reo mừng.
Cũng như những người Quốc gia chống Pháp cũng là những người yêu nước cả. Thế khi hai bên tranh thắng với nhau thì một bên thắng rồi đáng lẽ hai phe phải có sự hòa hợp như ngay sau cuộc nội chiến Mỹ thì chính nghĩa của phe thắng và chính nghĩa của phe thua cũng là một. Tôi nghĩ lỗi lầm là chủ nghĩa cộng sản quốc tế mang sứ mạng của cộng sản quốc tế đi chinh phục nhân loại nên có sự khác biệt với chính nghĩa quốc gia. Chính nghĩa yêu nước, giải phóng đất nước của người cộng sản lúc ban đầu nó không còn nguyên như trước mà đi vào con đường cộng sản nên có sự xung đột ý thức hệ rõ ràng.
BBC: Trong cuộc nội chiến giữa hai miền còn có sự tham gia của các cường quốc, ở miền Bắc là Liên Xô, Trung Quốc còn ở miền Nam là Hoa Kỳ, vậy có thể nói Việt Nam là con cờ trong tay các cường quốc hay không? Liệu lịch sử có thể nào diễn biến khác đi để Việt Nam tránh được những đau thương cho dân tộc mình?
GS Lê Xuân Khoa: Phải nhắc đến truyền thống của dân tộc mình là dân tộc tồn tại vì luôn luôn trong mấy ngàn năm phải đối phó với phương Bắc và tồn tại cho đến bây giờ mà không mất độc lập của mình là do đâu? Tức là vấn đề nhu đạo về ngoại giao, nhu đạo về quân sự. Mỗi khi chiến thắng Trung Quốc xong các vua chúa, các triều đại ngày trước đều trở sang triều cống, xin lỗi Trung Quốc như xin lỗi người đàn anh. Nghệ thuật chiến đấu cũng thế, không bao giờ thấy sự đối đầu giữa một đội quân nhỏ của Việt Nam với đội quân hùng mạnh vĩ đại của Trung Quốc mà chúng ta dùng nhu đạo tức là dùng chiến tranh du kích, dùng yếu đánh mạnh.
Cho đến gần đây nhu đạo không được áp dụng. Tình thế nó hơi khác. Ngày xưa chúng ta cùng có một nước để đối đầu. Ngày nay chúng ta bị kẹt ở giữa hai thế lực đại cường. Một bên là khối cộng sản do Liên Xô, Trung Quốc đứng đầu và một bên là khối dân chủ tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo. Chúng ta bị dùng trong cái chiến tranh mà tôi gọi là chiến tranh ủy nhiệm là vậy.
Chúng ta nhìn thấy rõ các vị lãnh đạo miền Bắc ít nhất cho đến bây giờ vẫn còn lúng túng giữa đi với Trung Quốc hay đi với Mỹ, đứng giữa như thế nào và tuy rằng nói đi với Mỹ để cân bằng với Trung Quốc nhưng thực tế cho thấy vẫn chọn con đường đi với Trung Quốc. Giáo sư Lê Xuân Khoa
Thế thì đứng kẹt ở thế giữa đó làm thế nào để tồn tại? Nhất định chúng ta phải nhu đạo rồi. Triết lý đó bây giờ chúng ta cứ áp dụng linh động trong vấn đề đối ngoại. Đối với cả hai bên tất nhiên chúng ta chọn con đường ở giữa tức là không lệ thuộc vào bên nào. Vấn đề này tôi nghe miền Bắc nói nhiều lần nhưng tôi thấy trên thực tế không áp dụng. Thành thử vẫn có sự thiên lệch. Ở đây chúng ta nhìn thấy rõ các vị lãnh đạo miền Bắc ít nhất cho đến bây giờ vẫn còn lúng túng giữa đi với Trung Quốc hay đi với Mỹ, đứng giữa như thế nào và tuy rằng nói đi với Mỹ để cân bằng với Trung Quốc nhưng thực tế cho thấy vẫn chọn con đường đi với Trung Quốc.
Vậy có cơ hội để cho Việt Nam thoát khỏi sự tranh chấp đó để độc lập được không? Trước khi có sự xung đột ý thức hệ, sau Đệ nhị Thế chiến, các cường quốc đã họp với nhau và đi đến con đường là xóa bỏ chế độ thuộc địa. Giá mà đi theo đường hướng đó do Mỹ đưa ra lúc đó thì nước Việt Nam không lâm vào tình trạng như ngày nay. Đó là lỗi lầm của người Pháp.
BBC: Ông có nhắc đến con đường trung đạo thì liệu ngày nay con đường trung đạo đó vẫn còn áp dụng được không nhất là trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn đang bị kẹt trong mối quan hệ với Mỹ và với Trung Quốc?
GS Lê Xuân Khoa: Tôi nghĩ rằng trung đạo lý thuyết thì đúng nhưng trên thực tế thì chưa thi hành. Tôi hy vọng Việt Nam càng nhìn thấy rõ phải thi hành con đường trung đạo.
Theo tôi Mỹ không quan tâm Việt Nam có trung đạo hay không. Họ phải hiểu cho Việt Nam có nước Trung Quốc to lớn vĩ đại ngay sát nách thì Việt Nam phải giữ thế trung đạo để tồn tại. Vả lại Mỹ có lý do để chấp nhận Việt Nam trung đạo. Thứ nhất Mỹ không có mưu đồ xâm chiếm thuộc địa, đất đai của Việt Nam bao giờ cả. Thứ hai Mỹ không như Trung Quốc phải Hán hóa dân tộc khác. Còn Trung Quốc có mưu đồ không bao giờ coi Việt Nam là mảnh đất độc lập. Họ luôn coi Việt Nam là một phần của Trung Quốc và có âm mưu Hán hóa Việt Nam. Hai vấn đề đó khiến Việt Nam phải vô cùng cảnh giác. Các nhà lãnh đạo bây giờ phải cảnh giác phải giữ được con đường trung đạo như thế. Muốn được như vậy thì phải mượn thế đồng minh cân bằng với Trung Quốc vì tự mình bây giờ thế mình yếu quá chưa đủ sức đối phó với Trung Quốc. Phải dựa vào thế của quốc tế, của Mỹ, của các nước tự do, dựa vào các nước Asean. Khi Trung Quốc thấy rằng sau lưng Việt Nam có Mỹ, thế giới tự do và cộng đồng châu Âu chẳng hạn thì Trung Quốc không thể lấn tới được nữa.
BBC: Một trong những hậu quả sau cuộc chiến là sự chia rẽ trong lòng dân tộc mà đến nay vẫn chưa thể hàn gắn được. Liệu con đường hòa giải có khả thi không và đâu là lộ trình khả dĩ nhất?
GS Lê Xuân Khoa: Lẽ dĩ nhiên không thể nào hận thù mãi mãi được. Đến một lúc nào đó thế hệ này không xong thì đến thế hệ sau. Sự hòa giải là mục tiêu tất yếu của dân tộc. Một dân tộc không thể nào mạnh, không thể nào phát triển được nếu dân tộc đó chia rẽ và căm thù lẫn nhau.
Lẽ dĩ nhiên có rất nhiều trở ngại cho đến bây giờ. Rất tiếc có biết bao cơ hội có để có thể xây dựng ý thức, quan niệm về hòa giải đã bị bỏ qua. Ai bỏ qua? Hòa giải hay không bắt đầu khởi đi từ người thắng trận chứ không phải từ người thua. Người thua không thể chìa tay xin được hòa giải mà người thắng nếu vì quyền lợi đất nước, vì tương lai lâu dài của đất nước nhất định chìa tay đón nhận người thua trận để hòa giải. Việc đó cho đến nay dù có nói ra nhưng chưa bao giờ làm cả.
Lòng người ngoài này người ta đâu có muốn tranh giành hay cướp lại chính quyền làm gì. Người ta chỉ mong rằng có một chính quyền nhận ra sai lầm của mình mở rộng vòng tay kêu gọi sự hòa giải và đối với nhân dân trong nước mở rộng các con đường, các chính sách đưa đến tự do, no ấm và hạnh phúc. Giáo sư Lê Xuân Khoa
Về sau họ lại nói nhiều về hòa hợp hơn chứ còn hòa giải muốn bỏ đi tức là chỉ muốn kéo người ta về phía mình thôi, không tôn trọng quan điểm của bên kia mà hòa giải bắt buộc là con đường hai chiều. Như thế sẽ không bao giờ có hòa giải được. Trong khi đó chính quyền đã phạm rất nhiều sai lầm, có thể nói là tội ác với dân tộc. Đáng lẽ phải sửa sai và mở vòng tay với bên ngoài thì người ta sẽ đón nhận.
Còn lộ trình khả dĩ? Bắt đầu từ phía Việt Nam, chìa tay ra trước, không phải chỉ bằng lời nói, cũng không phải kêu gọi người ta về đóng góp. Đóng góp về vật chất thì cũng là đáng kể, nhưng sự đóng góp đáng kể hơn, có giá trị hơn là đóng góp về trí tuệ. Cho đến nay các nhà lãnh đạo trong nước vẫn phàn nàn rằng sự đóng góp chất xám không có gì đáng kể. Nguồn lực trí tuệ ngoài nước rất nhiều, các anh em chuyên gia trí thức bên ngoài phải cùng phối trí với anh em trí thức trong nước để xây dựng một dân tộc hùng mạnh.
Đồng thời phải sửa đổi những sai lầm mình đã vấp phải bằng hành động chứ không phải xin lỗi gì cả để thực hiện mục tiêu một đất nước của dân, do dân, vì dân như là vẫn nói. Hãy làm chuyện đó thật đi. Lòng người ngoài này người ta đâu có muốn tranh giành hay cướp lại chính quyền làm gì. Người ta chỉ mong rằng có một chính quyền nhận ra sai lầm của mình mở rộng vòng tay kêu gọi sự hòa giải và đối với nhân dân trong nước mở rộng các con đường, các chính sách đưa đến tự do, no ấm và hạnh phúc.
Theo tôi có một bước quan trọng mà đến giờ chính quyền vẫn chưa chịu làm. Đó là hòa giải với người sống chưa được thì hòa giải với người chết trước đã. Đấy là vấn đề trùng tu nghĩa trang Biên Hòa, để cho người ta tìm lại mộ và cải táng người chết trong các trại cải tạo. Làm được hai cái đó chứng tỏ nghĩa cử rất đẹp để mà hòa giải với bên ngoài, chứng tỏ thiện chí của lãnh đạo trong nước. Tôi thấy chuyện này dễ như vậy mà không xong được thì khó lòng tiến được đến chuyện hòa giải.
BBC: Nhân nói đến việc hòa giải thì Việt Nam đang đối đầu với sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, vậy theo ông cộng đồng người Việt tại hải ngoại có vai trò như thế nào trong việc đối phó với mưu đồ của Trung Quốc?
GS Lê Xuân Khoa: Tôi lấy ví dụ cụ thể: Trong gia đình có hai anh em sống chung với nhau. Rồi đến lúc có xung đột cãi nhau, thậm chí đánh nhau chí chóe. Trong khi mâu thuẫn như vậy thì có kẻ thù bên ngoài đang vác súng sắp sửa vào cướp trong nhà. Mối nguy chung là khi kẻ thù vào thì cả hai anh em đều là nạn nhân hết thì bây giờ phải tạm thời quên sự chống đối nhau để hợp lực lại đuổi kẻ thù đang xâm lấn nhà mình hay là cứ nhất định người này phải diệt người kia đã rồi mới quay sang chống lại kẻ thù tôi nghĩ câu trả lời ai cũng thấy rõ. Phải gạt bỏ thù riêng đi để đối phó với kẻ thù chung rồi sau đó giải quyết với nhau sau. Đấy là quan điểm của tôi. Trái lại có những người chủ trương rằng hãy tiêu diệt chế độ này đã rồi mới đánh kẻ thù thì như thế tôi cho rằng đấy là ý nghĩ của những người vì lòng thù hận – cái đó mình cũng phải hiểu người ta thù hận đến độ bất chấp kẻ thù chung như vậy nhưng tôi nghĩ đó không phải là con đường sáng suốt.
Có người nói rằng nếu sau khi chiến thắng rồi thì phe kia nó mạnh lên, nó vẫn lại cai trị. Tôi nghĩ rằng tình thế sẽ đổi khác. Khi mà đã hợp lực, đã hòa giải thật sự, đã thả những người bất đồng chính kiến ra và khi người nước ngoài đã hợp lực loại được kẻ thù Trung Quốc đi thì chúng ta rất nhẹ gánh nặng để xây dựng đất nước. Lúc đó lực lượng nhân dân, những người dân chủ trong nước sẽ có thế lực mạnh hơn để thuyết phục những nhà lãnh đạo trong nước và lãnh đạo lúc đó cũng tỉnh ngộ rồi không bị gọng kìm của Trung Quốc ép nữa thì sẽ nhìn ra con đường mình sẽ đi. Vấn đề nội bộ sẽ dễ giải quyết hơn.
Cuộc phỏng vấn của BBC Việt ngữ với Giáo sư Lê Xuân Khoa được thực hiện trong tháng Tư, 2015 tại Nam California.

 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/04/150421_lexuankhoa_interview_vietnam_war