Wednesday, March 31, 2010
Thiếu Tá Lý Bửng
Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.
Quang cảnh lúc chiếc L19 do Thiếu Tá Lý Bửng lái đáp an toàn trên HKMH Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.
Viễn Đông: Xin chào Thiếu Tá Lý Bửng, Thiếu Tá mạnh khỏe không?
Thiếu Tá Lý Bửng: Ồ, chào anh, tá với tướng gì nữa, gọi anh em đi cho nó thân mật.
Viễn Đông: Vậy thì cám ơn Thiếu Tá, nhưng trước khi xưng hô anh em, xin Thiếu Tá cho biết năm nay bao nhiêu cái xuân xanh rồi mà chưa nghỉ hưu vẫn phải đi cày?
Th/Tá Lý Bửng: Xấp xỉ bảy bó rồi, nhưng còn cày được ta cứ cày (cười).
Viễn Đông: Vậy thì gọi Thiếu Tá là anh phải rồi, vì đàn em thua anh vài tuổi thôi.
(Đến đây xin phép độc giả, chúng tôi đổi cách xưng hô theo lời yêu cầu của Thiếu Tá Lý Bửng).
Th/Tá Lý Bửng: Rồi, OK, tôi làm anh, chú là em. Bây giờ chú muốn hỏi điều gì đây?
Viễn Đông: Thì hỏi anh chuyện lái máy bay đáp xuống hàng không mẫu hạm USS Midway đó mà!
Th/Tá Lý Bửng: Mà hỏi để làm gì?
Viễn Đông: Để đăng báo cho bà con đọc!
Th/Tá Lý Bửng: Thôi mà, có gì mà phải đăng báo! Mà đăng báo có sao không?
Viễn Đông: Sao là sao ạ? Có phải anh khiêm tốn hay là ngại chuyện gì khác?
Th/Tá Lý Bửng: Có liên quan đến chính trị không đó?
Viễn Đông: Thưa không đâu, chả có chính trị chính em gì cả. Đây là câu chuyện lý thú và rất đặc biệt của một phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba thôi.
Th/Tá Lý Bửng: Cho tôi một phút suy nghĩ.... Alô, rồi OK tới luôn đi.
Viễn Đông: Thế là ông anh sẵn sàng trả lời rồi phải không?
Th/Tá Lý Bửng: Sẵn sàng.
Viễn Đông: Trước hết xin cho biết, ông anh gia nhập Không Quân VNCH năm nào? Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, anh mang cấp bậc gì, đơn vị nào và đồn trú tại đâu?
Th/Tá Lý Bửng: Cấp bậc cuối của tôi là Thiếu Tá, còn hỏi đơn vị để làm gì vậy chú?
Viễn Đông: Thưa ông anh, trước hết để đơn vị của ông anh hãnh diện là có một bạn đồng ngũ nổi tiếng thế giới, đem vinh dự cho đơn vị; thứ hai là để kiểm chứng xem ông anh có ở trong Không Quân thiệt hay là ông anh cướp máy bay đi thì sao?
Th/Tá Lý Bửng: Chịu thua. Rồi, OK, tôi vô Không Quân năm 1963, đơn vị tôi là Phi Đoàn 114 Quan Sát, đóng tại Nha Trang, rồi gì nữa đây?
Viễn Đông: Anh lái loại máy bay nào khi bay ra hàng không mẫu hạm?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi lái L19, loại máy bay quan sát.
Viễn Đông: Nếu em nhớ không lầm, loại máy bay này người ta thường gọi là máy bay bà già hay là máy bay thám thính, đúng không anh?
Th/Tá Lý Bửng: Đúng rồi đó, nhưng mà gọi là máy bay quan sát cho nó nhẹ nhàng, chứ thám thính nghe ghê quá!
Viễn Đông: Anh bay từ đâu ra hàng không mẫu hạm, và ngày nào?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi bay từ Côn Sơn. Đầu tiên tôi bay từ Tân Sơn Nhất ra Côn Sơn ngày 29-4, rồi từ Côn Sơn bay ra HKMH ngày 30-4-1975.
Viễn Đông: Anh có biết trước vị trí của chiếc HKMH đang ở đâu hay phải bay đi tìm?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi biết có HKMH đón người di tản, nhưng không rõ đang ở đâu, nên phải bay đi tìm.
Viễn Đông: Anh bay bao lâu thì thấy HKMH?
Th/Tá Lý Bửng: Khoảng nửa tiếng hay 45 phút thì gặp chiếc USS Midway.
Viễn Đông: Nếu không gặp HKMH, máy bay của anh có đủ nhiên liệu bay qua Thái Lan không?
Th/Tá Lý Bửng: Nếu ở sát biên giới Thái Lan thì được, còn ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang hay Côn Sơn thì không đủ nhiên liệu bay qua Bangkok.
Viễn Đông: Lúc đó chắc còn nhiều loại máy bay khác, sao anh lại chọn L19?
Th/Tá Lý Bửng: Lúc đó chỉ còn duy nhất chiếc L19.
Viễn Đông: Ngoài L19, anh còn lái được loại máy bay nào khác?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi cũng lái được loại AD5, AD6 và Cessna, nhưng không lái thường xuyên như L19.
Viễn Đông: Vậy khi gặp HKMH, anh làm gì?
Th/Tá Lý Bửng: Thì tôi xin nó cho mình đáp xuống, nhưng khổ nỗi trên máy bay của tôi không có vô tuyến để liên lạc với dưới HKMH, nên tôi cứ bay vòng vòng xung quanh nó và dùng các phương pháp mình đã học để áp dụng cho nó hiểu là mình xin đáp, nhưng chẳng thấy dấu hiệu trả lời!
Viễn Đông: Xin anh đơn cử một trong những phương pháp xin đáp?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi chớp đèn đáp liên tục.
Viễn Đông: Rồi sao nữa anh?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi nghĩ ra cách, viết cái “note” cho họ hiểu là tôi xin đáp. Đầu tiên tôi cột vào con dao và bay sát HKMH, tôi mở cửa liệng dao xuống. Nó đụng sàn tàu, tưng lên rơi xuống biển. Sau đó tôi làm cái thứ hai, thứ ba, cột vào dây súng thảy xuống, cũng rơi luôn xuống biển. Lần thứ tư, tôi cột vào khẩu P. 38, bay thật thấp và liệng xuống. Lạy Trời, lần này không xuống biển. Tôi nhìn thấy một anh chàng chạy lại lượm lên coi và chạy biến đi, không biết đi đâu. Sau khi xuống tàu, được biết, khi họ lượm và đọc cái note của tôi, họ chạy ngay lên báo cho Hạm Trưởng.
Một trang bản đồ được Phi Công Lý Bửng xé ra ghi note liệng xuống HKMH. Mảnh giấy này được lưu giữ trên USS Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.
Viễn Đông: Trước khi trên HKMH họ lượm được cái note của anh, liệu họ có sợ máy bay khủng bố không, vì anh cứ bay vòng vòng quanh họ và lại bay rất thấp?
Th/Tá Lý Bửng: Không đâu, họ có ống dòm tối tân, họ nhìn thấy hết chứ.
Viễn Đông: Sau khi lượm được note của anh, họ có ra dấu OK cho anh đáp không?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi bay mấy vòng nữa quan sát, thì thấy họ đang dọn dẹp mấy chiếc trực thăng đậu trên phi đạo cho gọn lại, lúc đó tôi biết họ OK cho mình xuống.
Viễn Đông: Trong suốt thời gian là phi công, đã có lần nào anh hạ cánh trên hàng không mẫu hạm chưa?
Th/Tá Lý Bửng: Chưa.
Viễn Đông: Nhưng đã có lần nào anh phải hạ cánh xuống một phi đạo ngắn như trên HKMH?
Th/Tá Lý Bửng: Có chứ, nhưng trên đất liền, đỡ nguy hiểm hơn.
Viễn Đông: Chắc anh biết, phi đạo trên HKMH không có những dụng cụ chuẩn bị cho loại L19 đáp chứ?
Th/Tá Lý Bửng: Biết chứ. Họ chỉ trang bị lưới và móc để giữ các loại máy bay phản lực khi đáp xuống, không dự trù cho trườøng hợp của tôi.
Viễn Đông: Khi biết trước như vậy mà anh còn cố đáp xuống, anh có nghĩ là quá liều lĩnh không?
Th/Tá Lý Bửng: Dĩ nhiên là liều mạng rồi, vì không đáp xuống HKMH thì phải đáp xuống biển thôi.
Viễn Đông: Vậy trước khi quyết định hạ cánh, tâm trạng anh ra sao?
Th/Tá Lý Bửng: Nếu bây giờ tôi còn nhớ được tâm trạng lúc đó ra sao thì tôi thành Superman rồi chú ạ.
Viễn Đông: Ồ, em quên, ông anh cho biết trên máy bay L19, ông anh chở những ai?
Th/Tá Lý Bửng: Máy bay L19 chỉ có một chỗ cho hoa tiêu, một chỗ cho ông quan sát, nhưng tôi chơi luôn 7 mạng, tôi, vợ và 5 đứa con. Chính điều này làm người Mỹ rất sợ, vì chở quá trọng tải!
Viễn Đông: Khi bay, anh có cho chị và mấy cháu biết là sắp đáp xuống HKMH không?
Th/Tá Lý Bửng: Không. Cho bả biết, bả và mấy đứa nhỏ sợ thì hỏng chuyện.
Viễn Đông: Trước khi hạ cánh, anh có tin tưởng sẽ đáp xuống an toàn không?
Th/Tá Lý Bửng: Tin chứ, không tin sao dám đáp?
Viễn Đông: Lúc máy bay của anh dừng trên HKMH, mũi tàu còn khoảng cách bao xa thì lọt xuống biển?
Th/Tá Lý Bửng: Lúc đó mừng quá rồi ai mà nhớ, nhưng tôi nghĩ cũng còn một khoảng cách ngắn nữa.
Viễn Đông: Làm sao một phi đạo ngắn như vậy, anh đáp xuống được?
Th/Tá Lý Bửng: Khi máy bay vừa chạm sàn tàu, tôi tắt máy ngay, đó là nguyên tắc đáp ngắn.
Viễn Đông: Khi máy bay của anh hạ cánh an toàn, chuyện gì xảy ra?
Th/Tá Lý Bửng: Ôi, họ túm lại bồng tôi rồi bồng vợ, con tôi ra. Họ ríu rít hỏi han và tỏ ý rất khâm phục, họ dẫn chúng tôi lại gặp Hạm Trưởng, sau đó một Hạm Trưởng ở chiếc khác hay tin cũng bay đến gặp tôi chúc mừng. Người Mỹ họ rất cảm phục mình, thứ nhất là máy bay chở quá mức, thứ hai là dám đáp xuống HKMH bằng L19 và thứ ba là không có vô tuyến liên lạc.
Viễn Đông: Sau đó họ đưa anh và gia đình đi đâu?
Th/Tá Lý Bửng: Họ tiếp đãi rất nồng hậu, sau đó chuyển qua một chiếc tàu thương mại chở qua Subic Bay (Phi Luật Tân). Ở đó 1, 2 đêm, rồi họ chở về Guam và rồi từ Guam qua đây.
Viễn Đông: Sau đó, chiếc máy bay L19 do anh lái họ để ở đâu?
Th/Tá Lý Bửng: Chiếc L19 tôi lái là chiếc máy bay duy nhất được đem toàn vẹn qua Hoa Kỳ và trưng bày trong Bảo Tàng Viện Hải Quân của tiểu bang Florida.
Viễn Đông: Từ đó đến nay, đã có lần nào anh tới nhìn lại chiếc L19 đó, và nếu có thì cảm nghĩ của anh như thế nào?
Th/Tá Lý Bửng: Tôi có đến xem và thấy vẫn nguyên vẹn, còn cảm nghĩ thì mình cám ơn nó đã giúp đưa mình đến HKMH an toàn.
Viễn Đông: Vào ngày 30-4 sắp tới, nghe nói Ban Tổ chức có mời anh qua dự?
Th/Tá Lý Bửng: Đúng, họ có mời tôi.
Viễn Đông: Giả sử họ trao cho anh một chiếc L19 và yêu cầu anh bay biểu diễn rồi đáp xuống USS Midway một lần nữa cho bà con coi chơi, anh có dám không?
Th/Tá Lý Bửng: Dám chớ sao không? Làm thì làm chớ. Lâu quá rồi, với lại mình già rồi nhưng chắc cũng không đến nỗi tệ, vì quen như mình cầm đũa ăn cơm vậy mà!
Viễn Đông: Phục ông anh lắm. Vậy năm người con của anh, có ai nối nghiệp bố không anh?
Th/Tá Lý Bửng: Không, tụi nó nói: “Bố gan quá! Tụi con không dám!”.
Viễn Đông: Thế còn chị nhà, từ sau khi anh hạ cánh an toàn trên HKMH đến nay, có khi nào chị nhắc lại chuyện cũ và tưởng thưởng cho anh không?
Th/Tá Lý Bửng: Bả nói, sao mà đưa bả qua đây làm chi? Còn thưởng thì thưởng lâu rồi! Riêng mấy bà bạn bả hỏi thì bả nói: Ổng làm cái gì thì ổng làm, chứ tôi có biết gì đâu!
Viễn Đông: Còn người Mỹ thì sao? Họ có gặp anh phỏng vấn không?
Th/Tá Lý Bửng: Mỹ thì họ làm hoài đó chứ. Lần nào họ viết bài họ cũng nói họ rất khâm phục phi công VNCH, gan dạ cùng mình.
Viễn Đông: Tại sao lần này họ tổ chức 30-4 trên USS Midway?
Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.
Th/Tá Lý Bửng: Chiếc USS Midway này đã quá cũ nên chính phủ Mỹ đưa qua San Diego, biến nó thành cái Bảo Tàng Viện như một chứng tích của cuộc chiến. Trong đó một phần cũng do cái chuyện đáp L19 của tôi làm cho nhiều người tò mò đến xem, nên họ đã làm một cái L19 khác giống như chiếc tôi lái và để trên HKMH cho du khách xem, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam.
Viễn Đông: Thôi, làm phiền anh vậy đủ rồi, cám ơn anh và mong gặp anh ngày 30-4 trên USS Midway.
Th/Tá Lý Bửng: Cám ơn chú.
Thanh Phong/Viễn Đông
Tuesday, March 30, 2010
ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ NHÂN NGÀY QUỐC HẬN LẦN THỨ 35
(30 THÁNG 4 NĂM 2010) Nguyễn Quốc Đống - Tháng 3, 2010
1-Việc tổ chức Lễ Quốc Hận 30 tháng 4 hàng năm vẫn được các cộng đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại coi trọng vì đây là một sự kiện chính trị quan trọng trong công đồng những người Việt nạn nhân của Cộng Sản Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi vì không sống nổi trong một thể chế độc tài đảng trị đã tước đi tất cả các quyền tự do cơ bản của người dân, không tôn trọng nhân quyền. Sự kiện này xác nhận căn cước tỵ nạn của chúng ta và đặt ra một lằn ranh quốc-cộng rõ rệt giữa chúng ta, nạn nhân của CSVN và đảng CSVN, kẻ thủ ác đã khiến bao đồng đội của chúng ta ngã gục trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do chống Bắc quân CS xâm lược. CSVN rất sợ các cuộc tập họp quần chúng đông đảo trong ngày này vì đây là dịp tội ác của chúng bị đồng hương tỵ nạn CS một lần nữa bị nêu ra trước dư luận đồng bào tại hải ngoại cũng như trong nước. Chúng cũng sợ hãi các hình thức tưởng niệm “quốc hận” trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại hàng năm vào ngày 30 tháng 4 vì các hoạt động như vậy chứng tỏ người Việt tại hải ngoại không quên tội ác của chúng, cương quyết không hòa hợp, hòa giải với kẻ thủ ác, tội đồ của dân tộc. Các buổi lễ kỷ niệm quốc hận nếu được tổ chức đúng yêu cầu sẽ làm mất “hào quang chiến thắng giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho toàn dân” mà CSVN thường rêu rao bao năm để đánh lừa người dân Việt và cộng đồng quốc tế.
2- Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 tại bất cứ một địa phương nào không thể quên những mục tiêu then chốt sau đây :
Thứ nhất: Vạch trần tội ác của Cộng Sản đối với đất nước và người dân VN:
- Tội tiến hành chiến tranh đẫm máu xâm lược miền Nam tự do, dân chủ khiến nhiều triệu đồng bào miền Nam quân và dân đã mất mạng
.- Tội thiết lập một chế độ trả thù khắc nghiệt khiến cả trăm ngàn quân, cán, chính VNCH phải bị giam tù và đầy đọa nhiều năm tại các trại tù tập trung “cải tạo” của CS.
- Tội thi hành chính sách khắc nghiệt với dân chúng miền Nam khiến họ phải liều chết ra đi và khoảng 600,000 người phải bị mất mạng trong rừng sâu hay ngoài biển cả khi vượt biên, vượt biển trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ 20.
- Tội thiết lập một chế độ độc tài, đảng trị trên toàn nước VN sau 30 tháng 4 khiến người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ và không còn được tham gia vào việc quyết định vận mạng chính trị cho chính mình và đất nước.
Kết quả là ngày nay các đảng viên CS, giới có quyền duy nhất tại VN đang tự do dâng đất và biển của quê hương cho Tàu Cộng.Các tộc ác của CS không giảm bớt mà càng ngày càng gia tăng khiến đất nước Việt nam đang trên bờ vực thẳm bị diệt vong. Người dân có ý thức được hiểm họa này nhưng không có khả năng ngăn chận.
Thứ hai: Tưởng niệm và tri ân các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân trong cuộc chiến tự vệ của miền Nam VN chống Bắc quân CS xâm lược. Chúng ta nên tránh dùng chữ “liệt sĩ” vì đây là từ CSVN thường dùng để vinh danh các cán bộ và bộ đội của chúng đã chết trong cuộc chiến do chúng tiến hành tại VN. Chúng ta cũng tưởng niệm tất cả các quân cán chính VNCH bị chết vì bị CS giam tù hành quyết trong các trại tù CS, các đồng bào bị chết trên đường vượt biên và vượt biển. Họ chính là những người chết vì lý tưởng tự do, dân chủ, làm sáng danh chính nghĩa của chúng ta nên cần được nhớ ơn và tưởng niệm.
Thứ ba: Tạo cơ hội và điều kiện cho giới trẻ học hỏi các tấm gương sáng của các thế hệ đi trước để tiếp tục công việc của chúng ta. Họ cần ý thức được căn cước tỵ nạn của cha anh, của chính họ, của cộng đồng để nuôi dưỡng một ý thức hệ trọng. Đó là ý thức “cần phải tiếp nối truyền thống tranh đấu cho tự do, dân chủ của các thế hệ đi trước”.
Có như vậy họ mới xác định được chỗ đứng, vị trí và trách nhiệm của họ trong cộng đồng, đồng thời sẵn sàng đảm nhiệm vai trò lịch sử của mình. Công việc tranh đấu cho tự do, dân chủ của chúng ta không thể nào thành công nếu chúng ta không có kế hoạch giáo dục giới trẻ để họ đi đúng hướng và tiếp nối công việc còn bỏ dở của chúng ta. Giới trẻ không được hướng dẫn đúng đắn sẽ dễ dàng bị kẻ thù CSVN lung lạc, lợi dụng cho mục tiêu đen tối của chúng. Chúng ta không thể để mất giới trẻ trong cộng đồng tỵ nạn vào tay đối phương trong “cuộc chiến một mất một còn” hiện nay đang diễn ra giữa chúng ta và CS, giữa thiện và ác, giữa dân chủ và độc tài.
3- Đã từ lâu CSVN luôn tìm cách lợi dụng để làm biến thái ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Chúng rất muốn mọi người quên đi khía cạnh bi thương của ngày 30 tháng 4 để tội ác của chúng được từ từ xóa nhòa. Nếu chúng ta quên mất mục đích này của kẻ thù là chúng ta rơi vào bẫy của chúng . Vô tình chúng ta sẽ khiến công sức của chính mình giúp cho CS đạt mục tiêu của chúng. Chính vì thế tại nhiều websites trên diễn đàn internet chúng ta vẫn thấy có những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta?!..."Thế rồi có người lại đề nghị ta nên tổ chức các mục vui cho giới trẻ vào ngày này. Đây quả thực là một cái bẫy rất nguy hiểm do kẻ thù của chúng ta giăng ra. CSVN và tay sai không ngừng lợi dụng các sơ hở của chúng ta để đạt mục đích của chúng. Chính vì thế các vị lãnh đạo trong cộng đồng những người Việt tỵ nạn Cộng Sản cần thận trọng đừng để CS lợi dụng cho mục tiêu riêng của chúng. Nếu không thận trọng, người tỵ nạn CS chúng ta sẽ mắc bẫy kẻ thù và vô tình sẽ làm lợi cho sự tuyên truyền xảo trá của chúng.
Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra nhân Ngày Quốc Hận 30-4 năm 2005. Để kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 30 (30-4 -2005), 4 tổ chức có tên dưới đây đã đưa ra “Kế hoạch tổ chức Ngày Tự Do cho Việt Nam” vào ngày 30 tháng 4 năm 2005 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn:
1- Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ gốc Việt
2- Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ
3- Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường
4- Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Bắc Mỹ
Đồng hương người Việt tỵ nạn CS tại nhiều nơi rất ngạc nhiên về việc 4 tổ chức nói trên chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” vì các lý do sau đây:
- Ngày 30 tháng 4 hàng năm là Ngày Quốc Hận đối với người dân miền Nam Việt Nam và nhất là đối với các đồng bào đã phải rời bỏ quê hương Việt Nam ra đi tỵ nạn CS sau khi miền Nam tự do rơi vào tay Bắc quân CS xâm lược. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS vẫn gọi tháng 4 hàng năm là tháng 4 Đen để đánh dấu ngày lịch sử Việt Nam bước sang 1 trang sử vô cùng đen tối, ngày bắt đầu 1 thảm họa cho toàn dân tộc Việt.
- Việc chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” (hay là Ngày Tranh Đấu cho Tự Do của Việt Nam) cũng dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại. Trong nước, Cộng Sản Việt Nam coi đây là một ngày lễ lớn. Chúng vẫn cho tổ chức các lễ hội linh đình để ăn mừng “ngày chiến thắng” của chúng, ngày chúng “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ, Ngụy, đem lại tự do cho toàn dân Việt Nam”. Nếu chúng ta cũng chọn ngày này để ăn mừng một điều gì đó thì chúng ta “cũng như Việt Cộng tổ chức lễ hội ăn mừng vào ngày 30-4” ư?. Vậy chúng ta ăn mừng cái gì vào ngày “nước mất, nhà tan này”? Chẳng lẽ chúng ta ăn mừng “ngày các vị tướng miền Nam tuẫn tiết, ngày các chiến sĩ anh hùng của quân lực VNCH vị quốc vong thân, ngày khiến cho bao chiến sĩ Quân Lực VNCH và viên chức chính quyền miền Nam bị dồn vào các trại tù cải tạo, ngày khởi đầu của trang sử vượt biên, vượt biển đầy máu và nước mắt…”? Hay chúng ta ăn mừng “ngày chúng ta thoát khỏi đất nước bất hạnh của chúng ta và có được cơ hội hưởng đời sống tự do tại các nước tạm dung trong thế giới tự do”? Xin chúng ta đừng quên chỉ có một thiểu số rất nhỏ vì may mắn mới thoát được gông cùm CS và đang sống đời tự do tại các quốc gia dân chủ ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc …(khoảng 3 triệu người). Số còn lại, 85 triệu người vẫn còn đang sống khốn khổ vì mất tự do tại quê nhà.
Vả lại nếu chúng ta chọn ngày 30 tháng 4 để ăn mừng “tự do” thì chúng ta “hận” ai trong ngày này, không lẽ “hận Việt Cộng đã cho ta có dịp hưởng thứ tự do “số một” tại những cường quốc như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Tân Tây Lan…? Việc tổ chức “quốc hận” cho đồng hương như vậy sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.
Ý thức được sự tai hại của kế hoạch này, nhiều tổ chức cộng đồng khắp nơi trên thế giới tự do đã phản kháng quyết liệt (tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Minnesota, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại tiểu bang Georgia, các thành viên của Khối Lập Trường Chung do cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt lãnh đạo…).
Kết quả là kế hoạch tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam “ của các tổ chức nói trên tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã không thể thi hành được như đã định. Sau cùng Ban Tổ Chức đã phải đổi lại “ Ngày Tự Do cho Việt Nam” thành “Ngày Tranh Đấu cho tự do của Việt Nam”.
Họ cũng phải hủy bỏ các chương trình vinh danh các tổ chức cộng đồng vận động thành công các nghị quyết công nhận cờ VNCH, các chương trình văn nghệ có mặt các ca sĩ nổi tiếng để “ăn mừng tự do”?! Những năm sau đó người Việt tỵ nạn CS không còn thấy các hình thức “ăn mừng một cái gì đó vào ngày quốc hận 30 tháng 4” nữa.
Sự sáng suốt của các đồng hương tỵ nạn Cộng Sản giúp chúng ta không sa vào bẫy của CSVN muốn biến thái ý nghĩa “Ngày Quốc Hận”,(VC) muốn chúng ta thôi “căm hận” vào ngày này mà nên thay đổi trạng thái tâm lý, nên vui và nên quên buồn.
CSVN chưa thành công trong mục tiêu này của chúng vì trong thời gian qua, nhìn vào các lễ tưởng niệm Quốc Hận tại các cộng đồng có đông người Việt nạn nhân CS cư ngụ, đa số chúng ta thấy Ban Tổ Chức dành nhiều thời gian vào việc
- tố cáo tội ác của CS,
- vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân,
- vinh danh các đồng bào vì lý tưởng tự do, dân chủ mà phải bỏ mình trên khắp các nẻo đường đất nước, trong rừng sâu hay trên biển cả mênh mông.
Đồng hương đến dự Quốc Hận không than khóc cho các cái chết của các anh hùng tử sĩ. Chết vì nước là cái chết anh hùng, vinh dự nhất. Họ cần chúng ta noi gương họ để tiếp tục hy sinh tranh đấu cho nền tự do đích thực của dân tộc chứ không cần chúng ta khóc thương cái chết của họ. Chúng ta nên suy nghĩ để có thái độ thích đáng trong vai trò những người kế thừa sự nghiệp của họ.
Việc nhắc lại một sự kiện đã xảy ra vào ngày quốc hận cách đây 5 năm không ngoài mục đích để chúng ta cảnh giác đối với âm mưu thâm độc của kẻ thù CS. Chúng vẫn không từ bỏ mục đích tối hậu của chúng là “làm chúng ta quên mối hận mất nước vào ngày 30-4”, khiến chúng ta từ từ vui cái vui của chúng, và với thời gian mọi chuyện sẽ bị xóa nhòa. Chúng (tay sai VC) kêu gọi người Việt khắp nơi:
“hãy quên quá khứ, bỏ qua mọi phân biệt chính trị, mọi khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, nối vòng tay lớn để chấp nhận cả những kẻ thủ ác, để thực hiện việc “hòa hợp, hòa giải dân tộc”, để bắt tay vào công việc lớn là “xây dựng quê hương”…
Hiện nay, tại một số các websites trên diễn đàn internet, chúng ta vẫn còn thấy những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do, tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta…?!”
Là nạn nhân của CS đã từng bị chúng xua đuổi ra khỏi quê hương và tìm cách bức hại trăm chiều, chúng ta không thể quên các sự kiện lịch sử để rồi bị mắc bẫy của chúng. Chúng ta hãy tổ chức Ngày Quốc Hận 30-4 một cách đúng nghĩa để tội ác của chúng phải bị phơi bày trước công luận toàn thế giới, để không còn ai bị chúng đánh lừa, để mọi người đều thấy rằng 30 tháng 4 không phải chỉ là Ngày Quốc Hận của quân, dân miền Nam mà phài là Ngày Quốc Hận của toàn dân Việt Nam vì đây là ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức đặt ách đô hộ lên toàn thể dân tộc Việt nam.
Đây là ngày chúng chiếm được toàn nước Việt Nam, giành được quyền tối thượng đối với sinh mạng 85 triệu người Việt Nam, giành được quyền cho thuê hay bán đi giang sơn gấm vóc của dân tộc VN cho ngoại bang hầu thiết lập một chế độ chủ-nô trong thời đại mới, một chế độ độc tài, toàn trị lâu đời để đảng viên CS và gia đình chúng có thể sống xa hoa trên đầu, trên cổ người dân thường, những người luôn phải sống trong lầm than, nghèo đói, không tự do, dân chủ và nhân quyền.
Chỉ khi nào chế độ CSVN bị giải thể và Đảng CSVN bị giải tán, thì nỗi “quốc hận” của chúng ta mới tan được và đó sẽ là ngày chúng ta ăn mừng tự do của toàn dân, vui trọn vẹn cái vui của mọi người dân Việt trong nước cũng như tại hải ngoại." Có trung hiếu nên ðứng trong trời ðất" NCT
Wednesday, March 3, 2010
Honoring the 35th Anniversary of April 30, 1975 Celebrating Freedom in America
Join us on April 30, 2010 to honor a very important day in the USS Midway's and Vietnam's history.
It is the 35th anniversary of Operation Frequent Wind, the humanitarian mission when USS Midway sailors rescued more than 3,000 Vietnamese refugees fleeing the fall of Saigon.
The general public is invited to a special ceremony at 12 noon on the flight deck, featuring the 1975 captain of Midway, Larry Chambers, and the 1975 air boss of Midway, Vern Jumper, plus Vietnamese performances and entertainment.
Buy Individual Tickets Here Group Tickets Available Here (Scroll Down)
Complete Event Info andSpecial Ticket Opportunity Here!(English & Vietnamese)
Travel Package #1Travel Package #2Travel Package #3
News Media Resources
USS Midway Museum Fact Sheet
Vision To become the nation’s West Coast symbol of American strength, freedom and peace as a naval aviation museum.
Download Media Photos
Historical Perspective Commissioned a week after the end of World War II, the USS Midway embarked on an unprecedented 47-year odyssey that set new standards in naval aviation. More than 225,000 Americans took part in the odyssey that ended after Midway served as the Persian Gulf flagship in Desert Storm. Longest-serving U.S. Navy carrier of the 20th century and largest ship in the world, 1945-1955.
Features
Self-guided audio tour featuring Midway veterans as narrators included with each admission. Available in English, Spanish and Japanese. Sample clips from the audio tour:
Life at Sea
13,500 Meals a Day
A Stay in the Brig
SBD Pilot Memories
Optional flight simulators ($6-$30). Options include motion simulation on a Desert Storm mission and Strike Fighter 360 which features pilot-controlled rolls, spins and somersaults while flying a mission.
A youth sleepover program for non-profit youth organizations
Comprehensive education program in Midway University, hosting more than 30,000 K-12 students annual with curriculum-sanctioned, hands-on math and science labs and field trip activities
Highlights
More than 60 exhibits from boiler to bridge, including 25 restored aircraft
Virtual video tour for limited-access exhibits
Elevator access onto the ship and to second deck and flight deck
Interactive videos, climb-aboard aircraft, ejection-seat theatre
Café
Gift Shop
Early-bird docent-led tours
Wheelchair Access: elevators available from Navy Pier to hangar deck, second deck and flight deck. Virtual video tour of limited-access exhibits shown continuously on the flight deck.
Parking: Paid parking available on Navy Pier; public transit stops are only 3 blocks away
Awards & Recognition
Most-visited floating ship museum in the world: 4.1 million visitors in 5 years (2004-2009).
First museum in the country to receive the Preserve America Presidential Award in a Rose Garden Ceremony
Included in msn.com’s “Top 50 Museums of America”
Called the “gold standard of aircraft carrier museums” by The Boston Globe
Seen on: History Channel, Discovery Channel, Travel Channel, FOX’s Hannity & Colmes, Monday Night Football, Australia’s “Today Show,” among other
Special Events
More than 100,000 square feet available.
2005 Event Venue of the Year in a national meeting planner poll
285 events held in 2007, reservations accepted up to three years in advance
Location & Hours
910 North Harbor Drive, San Diego, CA 92101 (alongside Navy Pier)
Hours: 10 a.m. to 5 p.m. daily, (Thanksgiving and Christmas excepted)Ticket booth closes at 4 p.m.
Admission
$18 adults
$15 Seniors 62+ and Students with ID
$10 Retired military with ID
$10 Youth 6-17
5 and under free
All active-duty military/reservists free with ID
For More Information
Scott McGaughMarketing Director(619) 398-8250
smcgaugh@midway.org
Notes from Robert A. Griffin
Excellent - well written and factual.
I was a crew member aboard the USNS Greenville Victory and the memories came flooding back when I read your account. While enroute to Subic Bay, we had several children born onboard and I made up documents they could use for their citizenship as being born aboard a US vessel in international waters, which made them US citizens.
Best Regards for your future.
Robert A. Griffin
Tuesday, March 2, 2010
USS MIDWAY 30.4.1975 - 30.4.2010
DEPARTMENT OF THE NAVY -- NAVAL HISTORICAL CENTER
805 KIDDER BREESE SE -- WASHINGTON NAVY YARD
WASHINGTON DC 20374-5060
Chapter 5: The Final Curtain, 1973 - 1975
During the period from 29 March 1973 to 30 April 1975, the Defense Attaché Office (DAO), Saigon, administered the American military assistance to the Republic of Vietnam. Limited by the Paris Agreement to 50 or fewer military personnel, the activity was staffed predominantly by civilians and contractors. The DAO was responsible for providing supplies and material to the 42,000-man Vietnamese Navy, which operated 672 amphibious ships and craft, 20 mine warfare vessels, 450 patrol craft, 56 service craft, and 242 junks. The quality of personnel in the naval service remained adequate over the two-year period. A drastic cut in U.S. financial support, however, hurt the navy's overall readiness. The U.S. Congress appropriated only $700 million for fiscal year 1975, forcing the Vietnamese Navy to reduce its overall operations by 50 percent and its river combat and patrol activities by 70 percent. To conserve scarce ammunition and fuel, Saigon laid up over 600 river and harbor craft and 22 ships. The enemy did not target the waterways during 1973 and 1974, but such would not be the case in 1975 when the coastal areas of South Vietnam became the war's main operational theater.
Naval Evacuation of I and II Corps
The final test of strength between the Republic of Vietnam and its Communist antagonists that many observers had long predicted occurred in the early months of 1975. Seeking to erode the government's military position in the vulnerable II Corps area, on 10 March Communist forces attacked Ban Me Thuot, the capital of isolated Darlac Province, and routed the South Vietnamese troops there. The debacle convinced President Nguyen Van Thieu that even the strategic Pleiku and Kontum Provinces to the north could not be held and must be evacuated. Accordingly, on the fifteenth, government forces and thousands of civilian refugees began an exodus toward Tuy Hoa on the coast but that degenerated into a panicked flight when the enemy interdicted the main road. The enemy dispersed or destroyed many of the South Vietnamese II Corps units in this catastrophe.
These events set off a chain reaction as the demoralized South Vietnamese troops abandoned port after port along the South Vietnamese coast to swiftly advancing North Vietnamese forces. Learning of the disaster in II Corps and confused by contradictory deployment orders from Saigon, the defenders of I Corps also began to crack. Giving up Hue on 25 March, Vietnamese troops retreated in disorder toward Danang. The Vietnamese Navy rescued thousands of men cut off on the coast southeast of Hue, but heavy weather and the general confusion limited the sealift's effectiveness. On the previous day (24 March) government units evacuated Tam Ky and Quang Ngai in southern I Corps and also streamed toward Danang. Simultaneously, the navy transported elements of the 2d Division from Chu Lai to Re Island 20 miles offshore. With five North Vietnamese divisions pressing the remnants of the South Vietnamese armed forces and hundreds of thousands of refugees into Danang, order in the city disintegrated. Looting, arson, and riot ruled the city as over two million people sought a way out of the ever-closing trap.
During this period of growing chaos in South Vietnam, the U.S. Navy readied for evacuation operations. On 24 March, the Military Sealift Command (MSC), formerly the Military Sea Transportation Service, dispatched the following tugs, pulling a total of six barges, from Vung Tau toward Danang:
Asiatic Stamina
Chitose Maru
Osceola
Pawnee
Shibaura Maru
On 25 March, the following ships were alerted for imminent evacuation operations in South Vietnam:
SS American Racer
SS Green Forest
SS Green Port
SS Green Wave
SS Pioneer Commander
SS Pioneer Contender
SS Transcolorado
USNS Greenville Victory
USNS Sgt Andrew Miller
USNS Sgt. Truman Kimbro
Noncombatants were chosen for the mission because the Paris Agreement prohibited the entry of U.S. Navy or other military forces into the country.
With the arrival at Danang of Pioneer Contender on 27 March, the massive U.S. sea evacuation of I and II Corps began. During the next several days four of the five barge-pulling tugs and Sgt. Andrew Miller, Pioneer Commander, and American Challenger put in at the port. The vessels embarked U.S. Consulate, MSC, and other American personnel and thousands of desperate Vietnamese soldiers and civilians. When the larger ships were filled to capacity with 5,000 to 8,000 passengers, they individually sailed for Cam Ranh Bay further down the coast. By 30 March order in the city of Danang and in the harbor had completely broken down. Armed South Vietnamese deserters fired on civilians and each other, the enemy fired on the American vessels and sent sappers ahead to destroy port facilities, and refugees sought to board any boat or craft afloat. The hundreds of vessels traversing the harbor endangered the safety of all. Weighing these factors, the remaining U.S. and Vietnamese Navy ships loaded all the people they could and steamed for the south. MSC ships carried over 30,000 refugees from Danang in the four-day operation. American Challenger stayed offshore to pick up stragglers until day's end on 30 March, when the North Vietnamese overran Danang.
In quick succession, the major ports in II Corps fell to the lightly resisted Communist advance. Hampered by South Vietnamese shelling of Qui Nhon, Pioneer Commander, Greenville Victory, Korean-flag LST Boo Heung Pioneer, and three tugs were unable to load evacuees at this city, which fell on 31 March. The speed of the South Vietnamese collapse and the enemy's quick exploitation of it limited the number of refugees rescued from Tuy Hoa and Nha Trang. Before the latter port fell on 2 April, however, Boo Heung Pioneer and Pioneer Commander brought 11,500 passengers on board and put out to sea.
Initially, Cam Ranh Bay was chosen as the safe haven for these South Vietnamese troops and civilians transported by MSC. But, even Cam Ranh Bay was soon in peril. Between 1 and 4 April, many of the refugees just landed were reembarked for further passage south and west to Phu Quoc Island in the Gulf of Siam. Greenville Victory, Sgt. Andrew Miller, American Challenger, and Green Port each embarked between 7,000 and 8,000 evacuees for the journey. Pioneer Contender sailed with 16,700 people filling every conceivable space from stem to stern. Crowding and the lack of sufficient food and water among the 8,000 passengers on board Transcolorado led a number of armed Vietnamese marines to demand they be discharged at the closer port of Vung Tau. The ship's master complied to avoid bloodshed, but this crisis highlighted the need for the Navy to provide better security.
As the magnitude of the calamity in I and II Corps became apparent, the Seventh Fleet deployed elements of the Amphibious Task Force (Task Force 76) to a position off Nha Trang. Because of the political restrictions on the use of American military forces in South Vietnam and the availability of MSC resources, however, Washington limited the naval contingent, then designated the Refugee Assistance Task Group (Task Group 76.8), to a supporting role. For the most part, this entailed command coordination, surface escort duties, and the dispatch of 50-man Marine security details to the MSC flotilla at sea. By 2 April, the task group--Dubuque, Durham (LKA 114), Frederick (LST 1184), and the Task Force 76 flagship Blue Ridge (LCC 19)--was monitoring operations at Cam Ranh Bay and Phan Rang. That same night the first Marine security force to do so boarded Pioneer Contender. A second contingent was airlifted to Transcolorado on the fourth. Dissatisfied with the condition of reception facilities on Phu Quoc and ill-tempered after the arduous passage south, armed passengers in Greenville Victory forced the master to sail to Vung Tau. Guided missile cruiser Long Beach (CGN 9) and escort Reasoner (DE 1063) intercepted the ship and stood by to aid the crew, but the voyage and debarkation of passengers proceeded uneventfully. In addition, Commander Task Group 76.8 immediately concentrated Dubuque, guided missile destroyer Cochrane (DDG 21), storeship Vega (AF 59), and the three ships of Amphibious Ready Group Alpha at Phu Quoc to position security detachments on each of the MSC vessels and to resupply the refugees with food, water, and medicines. Naval personnel also served as translators to ease the registration process. By 10 April, all ships at Phu Quoc were empty, thus bringing to a close the intracoastal sealift of 130,000 U.S. and South Vietnamese citizens. With stabilization of the fighting front at Xuan Loc east of Saigon and the Communists preparation for the final offensive, the need to evacuate by sea diminished. By the fourteenth all naval vessels had departed the waters off South Vietnam and returned to other duties.
Eagle Pull
Meanwhile, the Seventh Fleet focused its attention on Cambodia, in imminent danger of falling to the Communist Khmer Rouge guerrillas. Since 1970, the United States had aided the government of President Lon Nol in its struggle with the indigenous enemy and with North Vietnamese forces arrayed along the border with South Vietnam. The American support included a bombing campaign launched from Navy carriers and Air Force bases as far away as Guam and the delivery to Phnom Penh of arms, ammunition, and essential commodities through airlift and Mekong River convoy. Material assistance to the 6,000-man Cambodian Navy included the transfer of coastal patrol craft, PBRs, converted amphibious craft for river patrol and mine warfare, and auxiliary vessels. Despite this aid, by early 1975 the Communists in Cambodia controlled every population center but Phnom Penh, the capital. As the enemy tightened his ring around the city, the resistance of Cambodian government forces began to crumble.
Concluding that it was only a matter of time before all was lost in Cambodia, American leaders prepared to evacuate American and allied personnel from Phnom Penh. Fleet commanders revised and updated long-standing plans and alerted their forces for this special mission, designated Operation Eagle Pull. On 3 March 1975, Amphibious Ready Group Alpha (Task Group 76.4), and the 31st Marine Amphibious Unit (Task Group 79.4) embarked and arrived at a designated station off Kompong Som (previously Sihanoukville) in the Gulf of Siam. By 11 April, the force consisted of amphibious ships Okinawa, Vancouver, and Thomaston (LSD 28), escorted by Edson (DD 946), Henry B. Wilson (DDG 7), Knox (DE 1052), and Kirk (DE 1087). In addition, Hancock disembarked her normal complement of fixed-wing aircraft and took on Marine Heavy Lift Helicopter Squadron (HMH) 463 for the operation. Anticipating the need to rescue as many as 800 evacuees, naval leaders decided that they needed all of the squadron's 25 CH-53, CH-46, AH-1J, and UH-1E helicopters and Okinawa's 22 CH-53, AH-1J, and UH-1Es of HMH-462. The amphibious group also carried the 2d Battalion, 4th Marines, which would defend the evacuation landing zone near the U.S. Embassy, and reinforced naval medical-surgical teams to care for any casualties. Land-based U.S. Air Force helicopters and tactical aircraft were also on hand to back up the naval effort. Commander U.S. Support Activities Group/7th Air Force (COMUSSAG) was in overall command of the evacuation operation.
On 7 April 1975, the American command put Amphibious Ready Group Alpha on three-hour alert and positioned the force off the Cambodian coast. In the early morning hours of 12 April Washington ordered execution of the daring mission. At 0745 local time, Okinawa began launching helicopters in three waves to carry the 360-man Marine ground security force to the landing zone. One hour later, after traversing 100 miles of hostile territory, the initial wave set down near the embassy and the Marines quickly established a defensive perimeter.
Within the next two hours, U.S. officials assembled the evacuees and quickly loaded them on Okinawa and Hancock helicopters. Because many already had left Cambodia by other means prior to the twelfth, the evacuees numbered only 276. The group included U.S. Ambassador John Gunther Dean, other American diplomatic personnel, the acting president of Cambodia, senior Cambodian government leaders and their families, and members of the news media. In all, 82 U.S., 159 Cambodian, and 35 other nationals were rescued.
By 1041 all the evacuees had been lifted out, and little more than one-half hour later the ground security force also was airborne and heading out to sea. At 1224 all aircraft and personnel were safely on board Amphibious Ready Group Alpha ships. Although one Khmer Rouge 75-millimeter shell landed near the embassy landing zone, no casualties were suffered during the entire operation. The following day, task group helicopters flew the evacuated personnel to Thailand and the naval force set sail for Subic Bay. Thus through detailed planning, preparation, and precise execution, the joint evacuation force successfully accomplished the military mission in Cambodia.
The Fall of South Vietnam
The experience gained in Operation Eagle Pull and in the refugee evacuations from South Vietnam's I and II Corps served the fleet well when the Republic of Vietnam, after 20 years of struggle, collapsed under the Communist onslaught. During the latter half of April, U.S. naval leaders prepared ships and men for the final evacuation of American and allied personnel from South Vietnam. The ships of the MSC flotilla were cleaned, restocked with food, water, and medicine; and deployed off Vung Tau in readiness. In addition, Marine security detachments embarked in each of the vessels and prepared to disarm boarding refugees and ensure order. Rincon (T-AOG-77) stood by to provide fuel to Vietnamese and American ships making the exodus from South Vietnam's waters.
The Seventh Fleet also marshalled its forces in the Western Pacific. Between 18 and 24 April 1975, with the loss of Saigon imminent, the Navy concentrated off Vung Tau a vast assemblage of ships under Commander Task Force 76.
Task Force 76
Blue Ridge (command ship)
Task Group 76.4 (Movement Transport Group Alpha)
Okinawa
Vancouver
Thomaston
Peoria (LST 1183)
Task Group 76.5 (Movement Transport Group Bravo)
Dubuque
Durham
Frederick
Task Group 76.9 (Movement Transport Group Charlie)
Anchorage (LSD 36)
Denver (LPD 9)
Duluth (LPD 6)
Mobile (LKA 115)
The task force was joined by Hancock and Midway, carrying Navy, Marine, and Air Force helicopters; Seventh Fleet flagship Oklahoma City; amphibious ships Mount Vernon (LSD 39), Barbour County (LST 1195), and Tuscaloosa (LST 1187); and eight destroyer types for naval gunfire, escort, and area defense. The Enterprise and Coral Sea carrier attack groups of Task Force 77 in the South China Sea provided air cover while Task Force 73 ensured logistic support. The Marine evacuation contingent, the 9th Marine Amphibious Brigade (Task Group 79.1), consisted of three battalion landing teams, four helicopter squadrons, support units, and the deployed security detachments.
After a dogged defense at Xuan Loc, the South Vietnamese forces defending the approaches to Saigon finally gave way on 21 April. With the outcome of the conflict clear, President Thieu resigned the same day. On the 29th, North Vietnamese and Viet Cong forces closed on the capital, easily pushing through the disintegrating Republic of Vietnam Armed Forces. Although U.S. and South Vietnamese leaders had delayed ordering an evacuation, for fear of sparking a premature collapse, the time for decision was now at hand.
At 1108 local time on 29 April 1975, Commander Task Force 76 received the order to execute Operation Frequent Wind (initially Talon Vise), the evacuation of U.S. personnel and Vietnamese who might suffer as a result of their past service to the allied effort. At 1244, from a position 17 nautical miles from the Vung Tau Peninsula, Hancock launched the first helicopter wave. Over two hours later, these aircraft landed at the primary landing zone in the U.S. Defense Attache Office compound in Saigon. Once the ground security force (2d Battalion, 4th Marines) established a defensive cordon, Task Force 76 helicopters began lifting out the thousands of American, Vietnamese, and third-country nationals. The process was fairly orderly. By 2100 that night, the entire group of 5,000 evacuees had been cleared from the site. The Marines holding the perimeter soon followed.
The situation was much less stable at the U.S. Embassy. There, several hundred prospective evacuees were joined by thousands more who climbed fences and pressed the Marine guard in their desperate attempt to flee the city. Marine and Air Force helicopters, flying at night through ground fire over Saigon and the surrounding area, had to pick up evacuees from dangerously constricted landing zones at the embassy, one atop the building itself. Despite the problems, by 0500 on the morning of 30 April, U.S. Ambassador Graham Martin and 2,100 evacuees had been rescued from the Communist forces closing in. Only two hours after the last Marine security force element was extracted from the embassy, Communist tanks crashed through the gates of the nearby Presidential Palace. At the cost of two Marines killed in an earlier shelling of the Defense Attaché Office compound and two helicopter crews lost at sea, Task Force 76 rescued over 7,000 Americans and Vietnamese.
Meanwhile, out at sea, the initial trickle of refugees from Saigon had become a torrent. Vietnamese Air Force aircraft loaded with air crews and their families made for the naval task force. These incoming helicopters (most fuel-starved) and one T-41 trainer complicated the landing and takeoff of the Marine and Air Force helicopters shuttling evacuees. Ships of the task force recovered 41 Vietnamese aircraft, but another 54 were pushed over the side to make room on deck or ditched alongside by their frantic crews. Naval small craft rescued many Vietnamese from sinking helicopters, but some did not survive the ordeal.
This aerial exodus was paralleled by an outgoing tide of junks, sampans, and small craft of all types bearing a large number of the fleeing population. MSC tugs Harumi, Chitose Maru, Osceola, Shibaura Maru, and Asiatic Stamina pulled barges filled with people from Saigon port out to the MSC flotilla. There, the refugees were embarked, registered, inspected for weapons, and given a medical exam. Having learned well from the earlier operations, the MSC crews and Marine security personnel processed the new arrivals with relative efficiency. The Navy eventually transferred all Vietnamese refugees taken on board naval vessels to the MSC ships.
Another large contingent of Vietnamese was carried to safety by a flotilla of 26 Vietnamese Navy and other vessels. These ships concentrated off Son Island southwest of Vung Tau with 30,000 sailors, their families, and other civilians on board.
On the afternoon of 30 April, Task Force 76 and the MSC group moved away from the coast, all the while picking up more seaborne refugees. This effort continued the following day. Finally, when this human tide ceased on the evening of 2 May, Task Force 76, carrying 6,000 passengers; the MSC flotilla of Sgt Truman Kimbro, Sgt Andrew Miller, Greenville Victory, Pioneer Contender, Pioneer Commander, Green Forest, Green Port, American Challenger, and Boo Heung Pioneer, with 44,000 refugees; and the Vietnamese Navy group set sail for reception centers in the Philippines and Guam. Thus ended the U.S. Navy's role in the 25-year American effort to aid the Republic of Vietnam in its desperate fight for survival.
The final test of strength between the Republic of Vietnam and its Communist antagonists that many observers had long predicted occurred in the early months of 1975. Demoralized South Vietnamese troops abandoned port after port along the South Vietnamese coast to swiftly advancing North Vietnamese forces. With five North Vietnamese divisions pressing the remnants of the South Vietnamese armed forces and hundreds of thousands of refugees into Danang, order in the city disintegrated. During this period of growing chaos in South Vietnam, the U.S. Navy readied for evacuation operations. On 25 March 1975, a number of ships were alerted for imminent evacuation operations in South Vietnam. Noncombatants were chosen for the mission because the Paris Agreement prohibited the entry of US Navy or other military forces into the country.
With the arrival at Danang of Pioneer Contender on 27 March 1975, the massive U.S. sea evacuation of I and II Corps began. During the next several days four of the five barge-pulling tugs and Sgt. Andrew Miller, Pioneer Commander, and American Challenger put in at the port. The vessels embarked U.S. Consulate, MSC, and other American personnel and thousands of desperate Vietnamese soldiers and civilians. When the larger ships were filled to capacity with 5,000 to 8,000 passengers, they individually sailed for Cam Ranh Bay further down the coast. Hampered by South Vietnamese shelling of Qui Nhon, Pioneer Commander, Greenville Victory, Korean-flag LST Boo Heung Pioneer, and three tugs were unable to load evacuees at this city, which fell on 31 March. The speed of the South Vietnamese collapse and the enemy's quick exploitation of it limited the number of refugees rescued from Tuy Hoa and Nha Trang. Before the latter port fell on 2 April, however, Boo Heung Pioneer and Pioneer Commander brought 11,500 passengers on board and put out to sea.
On the evening of 2 May 1975 the MSC flotilla of Sgt Truman Kimbro, Sgt Andrew Miller, Greenville Victory, Pioneer Contender, Pioneer Commander, Green Forest, Green Port, American Challenger, and Boo Heung Pioneer, with 44,000 refugees, set sail for reception centers in the Philippines and Guam. Thus ended the 25-year American effort to aid the Republic of Vietnam in its fight for survival.
Subscribe to:
Posts (Atom)